Áp dụng pháp luật trong thương mại?

Bài viết này đề cập đến việc áp dụng pháp luật trong thương mại theo quy định của Luật thương mại 2005.

1. Áp dụng pháp luật trong thương mại?

Căn cứ Điều 4 Luật thương mại 2005 quy định việc áp dụng Luật thương mại và các luật khác như sau:

– Mọi hoạt động thương mại phải tuân theo Luật Thương mại và các pháp luật có liên quan.

– Đối với các hoạt động thương mại đặc thù được quy định trong các luật khác, áp dụng quy định của luật đó.

– Trong trường hợp hoạt động thương mại không được quy định trong Luật Thương mại hoặc các luật khác, áp dụng quy định của Bộ Luật Dân sự.

Lưu ý:
– Trong trường hợp Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là thành viên của một điều ước quốc tế có quy định về áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế hoặc khác với quy định của Luật, thì quy định của điều ước quốc tế đó sẽ được áp dụng.

Các bên tham gia giao dịch thương mại với yếu tố nước ngoài có thể thoả thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế, miễn là pháp luật và tập quán đó không vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

2. Chi tiết áp dụng pháp luật?

2.1. Áp dụng Luật thương mại?

Có hai trường hợp để phân biệt khi áp dụng Luật Thương mại đó là Luật Thương mại đương nhiên được áp dụng và Luật Thương mại được áp dụng thông qua sự chọn lựa luật.

Trường hợp 1: Luật Thương mại đương nhiên được áp dụng từ quy định tại khoản 1 Điều 4 của Luật Thương mại, theo đó “hoạt động thương mại phải tuân theo Luật thương mại và pháp luật có liên quan”, cũng như từ quy định tại khoản 1 Điều 1 Luật Thương mại, theo đó Luật này điều chỉnh “hoạt động thương mại thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Do đó, Luật Thương mại tự nhiên áp dụng cho các hoạt động thương mại trên lãnh thổ Việt Nam. Thuật ngữ “thực hiện” ở đây được hiểu rộng rãi, bao gồm việc thiết lập giao dịch thương mại, thực hiện quyền và nghĩa vụ, cũng như thực hiện các thủ tục hành chính liên quan. Trong trường hợp này, hoạt động thương mại thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam không chứa đựng yếu tố nước ngoài, không tạo ra mối quan hệ dân sự nước ngoài theo quy định tại Điều 758 của Bộ luật Dân sự.

Lưu ý rằng, Luật Thương mại quy định về “mua bán hàng hóa quốc tế” là hoạt động mua bán hàng hóa qua các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu. Tuy nhiên, không phải mọi giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế đều có yếu tố nước ngoài. Ví dụ, một hợp đồng mua bán giữa một doanh nghiệp chế xuất trong khu chế xuất và một doanh nghiệp khác không phải là chế xuất, nằm ngoài khu chế xuất, với hàng hóa được giao ra ngoài khu chế xuất, là một hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định tại Điều 28 Luật Thương mại, nhưng không chứa đựng yếu tố nước ngoài vì cả bên mua và bên bán đều là thương nhân Việt Nam, hợp đồng được thực hiện hoàn toàn trên lãnh thổ Việt Nam.

Một giao dịch pháp luật được xem là giao dịch thương mại và đương nhiên chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại nếu nó đáp ứng đủ ba điều kiện về chủ thể, đối tượng và mục đích như sau:

Thứ nhất, tất cả các chủ thể tham gia giao dịch phải là thương nhân, được đăng ký kinh doanh.

Thứ hai, đối tượng của giao dịch phải là hàng hóa, bao gồm tất cả các loại động sản.

Thứ ba, mục đích của giao dịch là “sinh lợi”, không nhất thiết phải là lợi nhuận mà còn có thể là mục đích sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ thiết yếu, hoặc bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Như vậy, khi một giao dịch pháp luật đáp ứng các điều kiện trên và được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam, thì đương nhiên chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại. Và khi một giao dịch pháp luật chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại, các quy định của Luật Thương mại được áp dụng là luật riêng, trong khi quy định của Bộ luật Dân sự chỉ được áp dụng đối với các vấn đề mà Luật Thương mại không điều chỉnh.

Tuy nhiên, thực tế xét xử của tòa án đã cho thấy một số trường hợp vẫn chưa rõ ràng về nguyên tắc này. Ví dụ, trong một vụ án, mặc dù cả hai bên đều là thương nhân và tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa, tòa án đã áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự thay vì Luật Thương mại để giải quyết tranh chấp.

Trường hợp 2: Luật Thương mại được áp dụng bởi sụ lựa chọn trong hai trường hợp nhất định: Khi một bên không phải là thương nhân ký kết giao dịch với một bên là thương nhân và khi giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài.

Đối với trường hợp đầu tiên, Luật Thương mại quy định rằng nếu một bên không phải là thương nhân tham gia vào giao dịch với một bên là thương nhân trên lãnh thổ của Việt Nam mà không vì mục đích kinh doanh, thì Luật Thương mại có thể được áp dụng nếu bên không phải là thương nhân chọn lựa. Tuy nhiên, quy định này cần được hiểu rõ là việc chọn áp dụng Luật Thương mại phải được thỏa thuận giữa các bên hợp đồng, không thể đơn phương quyết định. Ngoài ra, việc ký kết hợp đồng mà nêu rõ căn cứ pháp luật là Luật Thương mại không tự động coi là việc chọn áp dụng Luật Thương mại, đặc biệt khi bên không phải là thương nhân không hiểu rõ về ý nghĩa pháp lý của điều này.

Đối với trường hợp thứ hai, Luật Thương mại quy định rằng các bên trong giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài có thể thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, miễn là pháp luật đó không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Việc này thường được thực hiện bằng cách thỏa thuận trong hợp đồng về việc chọn luật áp dụng. Trong trường hợp không có thỏa thuận, tòa án hay trọng tài có thể quyết định áp dụng luật theo nguyên tắc xung đột pháp luật.

Types of legislation - iPleaders

Ảnh minh hoạ

2.2. Áp dụng Bộ luật dân sự?

Có hai quy định thiết lập mối liên hệ giữa Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại. Quy định đầu tiên, theo Điều 1 của Bộ luật Dân sự, quan hệ dân sự bao gồm cả quan hệ kinh doanh, thương mại. Quy định thứ hai, theo Khoản 3 của Điều 4 Luật Thương mại, “hoạt động thương mại không được quy định trong Luật Thương mại và trong các luật khác thì áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự”. Những quy định này xác lập mối quan hệ giữa luật chung và luật riêng giữa Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại, thể hiện nguyên tắc “luật riêng quy định thì không áp dụng quy định của luật chung” hoặc “luật riêng loại trừ luật chung”. Tuy nhiên, trong thực tế, không có hoạt động thương mại nào không được quy định trong luật chuyên ngành, Luật Thương mại, mà lại chỉ được quy định trong Bộ luật Dân sự. Do đó, để quy định này có giá trị thực tế, cần hiểu nó theo nghĩa những vấn đề pháp lý nào của một hoạt động thương mại không được quy định trong luật chuyên ngành và Luật Thương mại thì áp dụng các quy định về vấn đề pháp lý đó của Bộ luật Dân sự.

Luật Thương mại không quy định mọi vấn đề pháp lý của các hoạt động thương mại nói chung, cũng như của từng hoạt động thương mại cụ thể được quy định trong Luật này. Ví dụ, Luật Thương mại không quy định vấn đề giao kết hợp đồng và hiệu lực của hợp đồng trong các hoạt động thương mại. Bởi vậy, các quy định về giao kết hợp đồng và hiệu lực của giao dịch dân sự của Bộ luật Dân sự được áp dụng để xem xét các vấn đề đó đối với hợp đồng trong các hoạt động thương mại được quy định tại Luật Thương mại. Các quy định về giao kết và hiệu lực hợp đồng của Bộ luật Dân sự cũng được áp dụng đối với hợp đồng được thiết lập để tiến hành các hoạt động thương mại được quy định trong luật chuyên ngành, trừ khi các luật chuyên ngành đó có các quy định riêng về vấn đề này.

Trong trường hợp Luật Thương mại đã cung cấp đầy đủ cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp về một vấn đề pháp lý nào đó, thì việc đồng thời viện dẫn cả quy định của Bộ luật Dân sự làm cơ sở giải quyết tranh chấp là không phù hợp với nguyên tắc “luật riêng quy định thì không áp dụng quy định của luật chung”. Tuy nhiên, trong thực tế xét xử, đôi khi tòa án vẫn làm điều này dường như để đảm bảo tính chắc chắn.

2.3. Áp dụng văn bản pháp luật khác?

Các hoạt động thương mại đa dạng và phong phú, không thể điều chỉnh trong một luật duy nhất. Tại Việt Nam, nhiều luật như Luật Xây dựng, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Hàng hải, Luật Hàng không dân dụng… điều chỉnh các hoạt động thương mại không được quy định trong Luật Thương mại. Mối quan hệ giữa Luật Thương mại và các luật khác được xác lập thông qua quy định “hoạt động thương mại tuân theo Luật Thương mại và pháp luật có liên quan”, cũng như quy định “hoạt động thương mại đặc thù được quy định trong luật khác thì áp dụng quy định của luật đó”. Các quy định này xác định Luật Thương mại là luật chung đối với hoạt động thương mại nói chung, còn các luật khác quy định về hoạt động thương mại đặc thù là luật riêng. Đồng thời, quy định này cũng thể hiện nguyên tắc cơ bản về áp dụng luật, là luật riêng áp dụng, luật chung chỉ áp dụng khi luật riêng không quy định, còn gọi là luật riêng loại trừ luật chung.

Phần lớn vấn đề pháp lý của các hoạt động thương mại đặc thù này được quy định trong các luật chuyên ngành tương ứng. Tuy nhiên, một số vấn đề pháp lý như chế tài do vi phạm hợp đồng hay thời hạn khiếu nại không được quy định trong luật chuyên ngành hoặc được quy định không đầy đủ, nên quy định về chế tài trong thương mại hoặc thời hạn khiếu nại của Luật Thương mại được áp dụng. Ví dụ, Luật Xây dựng chỉ quy định, đối với công trình xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước, mức phạt vi phạm hợp đồng không vượt quá 12% giá trị hợp đồng. Do đó, đối với các hợp đồng xây dựng khác, áp dụng quy định về mức phạt vi phạm hợp đồng của Luật Thương mại. Mặt khác, Luật Xây dựng không quy định các chế tài khác, nên các quy định của Luật Thương mại về chế tài trong thương mại như quy định về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng được áp dụng đối với hợp đồng xây dựng giữa các thương nhân.

Tuy nhiên, có trường hợp không rõ ràng mối quan hệ luật chung, luật riêng giữa Luật Thương mại và các luật chuyên ngành. Ví dụ, Luật Quảng cáo quy định về hoạt động quảng cáo, trong đó quảng cáo thương mại tương ứng với quảng cáo sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích sinh lời theo Luật Quảng cáo. Tuy nhiên, vì phạm vi điều chỉnh của Luật Quảng cáo bao gồm cả quảng cáo không nhằm mục đích sinh lời, nên không thể xem đây là luật điều chỉnh hoạt động thương mại đặc thù, và là luật riêng so với Luật Thương mại. Đối với trường hợp này, chỉ có sự trùng lặp phạm vi điều chỉnh giữa hai luật này, và sự trùng lặp này phải được giải quyết bằng cách bãi bỏ các quy định về quảng cáo thương mại trong Luật Thương mại theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Do đó, các quy định của Luật Quảng cáo về quảng cáo sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích sinh lời sẽ được áp dụng thay thế các quy định của Luật Thương mại về quảng cáo thương mại, và nhận thức về mối quan hệ giữa hai luật này là quan trọng đối với việc áp dụng luật, vì thực tế có nhiều quy định khác nhau giữa hai luật này về cùng một vấn đề.


TUYET NHUNG LAW cung cấp đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp và giàu kinh nghiệm xử lý các vụ án trên thực tế trong lĩnh vực Thương mại. Liên hệ tư vấn hoặc mời luật sư tham giao bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong các vụ án Thương mại tại Toà án và Trọng tài trong các tranh chấp liên quan đến Thương mại. Vui lòng liên hệ số điện thoại hotline: 0975.982.169 hoặc gửi yêu cầu qua email: buinhunglw2b@gmail.com để được hỗ trợ.

Theo dõi chúng tôi trên
CÙNG CHỦ ĐỀ
Gọi luật sư Gọi luật sư Yêu cầu gọi lại Yêu cầu dịch vụ