Thương nhân là ai?

1. Thương nhân là ai?

Theo quy định của Luật Thương mại năm 2005, chủ thể có thể trở thành thương nhân gồm 2 nhóm là cá nhân và tổ chức kinh tế. Để xác định cá nhân là ai, phải tuân theo quy định của pháp luật dân sự. Theo đó, cá nhân với tư cách là chủ thể pháp luật dân sự bắt đầu từ lúc sinh ra và chấm dứt sự tồn tại khi chết. Thương nhân cá nhân cụ thể có năng lực pháp luật và hành vi theo quy định của pháp luật dân sự để thực hiện các hoạt động thương mại, đồng thời tự gánh chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về hoạt động thương mại đó. Một điểm quan trọng là thương nhân cá nhân phải từ đủ mười tám tuổi trở lên và không thuộc các trường hợp pháp luật cấm kinh doanh.

Để trở thành thương nhân, cá nhân phải thực hiện việc đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật. Luật Thương mại Việt Nam không trực tiếp quy định về việc thành lập thương nhân, mà thương nhân chỉ được thành lập thông qua thủ tục gián tiếp. Do đó, tổ chức và cá nhân kinh doanh có các quy định khác nhau để xác lập tư cách thương nhân. Đối với tổ chức kinh tế, như việc thành lập doanh nghiệp, thì phải đăng ký tại Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư theo quy định của pháp luật.

Hiện nay, pháp luật đã chi tiết hóa về việc thành lập doanh nghiệp và đăng ký thành lập doanh nghiệp, được xác định là quyền của nhà đầu tư. Các nhà đầu tư phải thỏa mãn những điều kiện cụ thể theo quy định pháp luật để được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Trong trường hợp thương nhân là cá nhân hộ kinh doanh, thì phải đăng ký tại Phòng Đăng ký kinh doanh cấp huyện theo quy định. Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc một nhóm người gồm các cá nhân là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng dưới mười lao động và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh theo quy định. Do đó, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, đăng ký hộ kinh doanh là văn bản khai sinh ra chủ thể pháp luật mới là thương nhân.

Khi đăng kí doanh nghiệp, thương nhân phải thực hiện hoạt động thương mại với tư cách là một nghề nghiệp của họ. Hoạt động thương mại là mối quan hệ gắn bó không thể tách rời bởi không thể gọi là thương nhân khi mà chủ thể đó không thực hiện hoạt động thương mại. Thực hiện hoạt động thương mại được xem là thuộc tính cơ bản của thương nhân và bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động khác với mục đích sinh lợi.

Trong thực tế, hoạt động thương mại của thương nhân luôn chịu những tác động từ các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội, do đó chúng luôn ở trạng thái động theo bối cảnh xã hội. Các cá nhân và tổ chức kinh tế được xem là thương nhân chỉ khi tiến hành hoạt động thương mại một cách độc lập. Điều này có nghĩa là họ phải tham gia vào hoạt động thương mại với tư cách là chủ thể pháp luật độc lập. Do đó, sự phụ thuộc về mặt tài chính, kinh tế không làm mất đi tính độc lập về mặt pháp lý của họ. Các công ty con hoặc liên kết trong nhóm công ty là các chủ thể pháp luật độc lập với công ty mẹ và đều được xem là thương nhân theo quy định của pháp luật thương mại.

Thương nhân là gì? Quyền và nghĩa vụ của thương nhân

Ảnh minh hoạ

2. Phân loại thương nhân?

2.1. Thương nhân là doanh nghiệp

Ở Phương Tây, khái niệm “doanh nghiệp” được hiểu là một thuật ngữ kinh tế, không phải là thuật ngữ pháp lý. Tuy nhiên, tại Việt Nam, thuật ngữ này đã được pháp luật chính thức hóa. Theo đó, “Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh.”. Pháp luật Việt Nam hiện nay công nhận 04 loại hình doanh nghiệp bao gồm: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Ở Việt Nam, thuật ngữ “Luật Doanh nghiệp” được sử dụng thay cho “Luật Công ty” bắt nguồn từ việc pháp luật công nhận sự tồn tại của doanh nghiệp tư nhân và mong muốn tích hợp quy định về doanh nghiệp tư nhân vào một văn bản pháp luật điều chỉnh các loại hình doanh nghiệp.

Trong số các loại hình doanh nghiệp được công nhận, doanh nghiệp tư nhân là loại duy nhất không có tư cách pháp nhân. Quy định pháp luật về doanh nghiệp tư nhân cho thấy rằng, doanh nghiệp tư nhân không phải là một thực thể độc lập so với chủ sở hữu. Tuy nhiên, doanh nghiệp tư nhân vẫn được sở hữu tên riêng, mã số thuế riêng, và theo nguyên tắc, nó có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp theo quy định tại Điều 7 và Điều 8 của Luật Doanh nghiệp năm 2020. Vì vậy, đã có ý kiến ​​băn khoăn khi xác định doanh nghiệp tư nhân là một thương nhân cá nhân.

Tư cách pháp lý của chủ doanh nghiệp tư nhân và tư cách thương nhân của doanh nghiệp tư nhân được xác định theo quy định của Bộ luật Dân sự và Luật Doanh nghiệp. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005 và Luật Doanh nghiệp năm 2014, “Chủ doanh nghiệp tư nhân là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài hoặc Toà án trong các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp”, có nghĩa là chủ doanh nghiệp tư nhân mới là chủ thể tham gia vào các mối quan hệ pháp lý, không phải doanh nghiệp tư nhân. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 101 của Bộ luật Dân sự năm 2015, tổ chức không có tư cách pháp nhân không được quyền tham gia vào giao dịch dân sự. Hướng dẫn số: 29/HD-VKSTC ngày 25/9/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã chỉ rõ: Trong các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp tư nhân, chủ doanh nghiệp tư nhân phải được xác định là bên tranh đấu, không phải là doanh nghiệp tư nhân. Dựa trên những quy định trên, việc liên kết doanh nghiệp với tư cách pháp lý của chủ doanh nghiệp tư nhân là hợp lý. Trong mối quan hệ này, tư cách thương nhân liên kết chặt chẽ với cá nhân chủ doanh nghiệp là vấn đề quan trọng, trong khi bản thân doanh nghiệp là vấn đề thứ yếu.

Vấn đề đặt ra là, quy định “Chủ doanh nghiệp tư nhân là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài hoặc Toà án trong các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp” trong Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã được thay thế bằng quy định “Chủ doanh nghiệp tư nhân là người đại diện theo pháp luật, đại diện cho doanh nghiệp tư nhân với tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Toà án, đại diện cho doanh nghiệp tư nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật”

2.2. Thương nhân là hợp tác xã

Từ góc độ lý luận, vẫn có sự đa dạng trong cách hiểu về bản chất của hợp tác xã. Một quan điểm cho rằng, về cơ bản, hợp tác xã là một loại hình doanh nghiệp, trong khi quan điểm khác lại cho rằng hợp tác xã và doanh nghiệp là hai thực thể hoàn toàn khác biệt. Tuy nhiên, khi xét về pháp lý, hợp tác xã có sự độc lập với doanh nghiệp và được điều chỉnh bởi quy chế pháp lý riêng, không phụ thuộc vào quy chế của doanh nghiệp.

Theo Luật Hợp tác xã năm 2012, có hai mô hình tổ chức hợp tác xã: hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã (được gọi chung là hợp tác xã). Theo đó, “Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã”. Trong khi đó, “Liên hiệp hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 04 hợp tác xã tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu chung của hợp tác xã thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý liên hiệp hợp tác xã”. Hợp tác xã có đủ các đặc điểm của một thương nhân: (1) được đăng ký thành lập (đăng ký kinh doanh); (2) thực hiện hoạt động thương mại (kinh doanh) một cách thường xuyên, mang tính nghề nghiệp; (3) hoạt động dưới danh nghĩa của chính nó, vì lợi ích của bản thân.

2.3. Thương nhân là hộ kinh doanh

Theo quy định tại Điều 79 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP, “Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc các thành viên hộ gia đình đăng ký thành lập và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh của hộ”. Dựa vào định nghĩa và các quy định về hộ kinh doanh trong Nghị định số: 01/2021/NĐ-CP và khái niệm thương nhân trong Luật Thương mại năm 2005, có thể kết luận rằng hộ kinh doanh được xem là thương nhân theo quy định của Luật Thương mại năm 2005. Tuy nhiên, khái niệm hộ kinh doanh liên quan mật thiết đến khái niệm hộ gia đình. Tư cách chủ thể của hộ gia đình trong pháp luật dân sự là cơ sở để xác định tư cách thương nhân của hộ kinh doanh trong pháp luật thương mại. Tuy nhiên, tư cách chủ thể pháp luật dân sự của hộ gia đình từ lâu đã gặp nhiều ý kiến trái chiều. Một quan điểm ủng hộ việc ghi nhận tư cách chủ thể pháp luật dân sự của hộ gia đình, trong khi quan điểm khác lại cho rằng pháp luật không nên ghi nhận hộ gia đình là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự.

Trong Bộ luật Dân sự năm 2005, tư cách chủ thể pháp luật dân sự của hộ gia đình được ghi nhận với quy định, “Chủ hộ là đại diện của hộ gia đình trong các giao dịch dân sự vì lợi ích chung của hộ. Cha, mẹ hoặc một thành viên khác đã thành niên có thể là chủ hộ. Chủ hộ có thể uỷ quyền cho thành viên khác đã thành niên làm đại diện của hộ trong quan hệ dân sự. Giao dịch dân sự do người dại diện của hộ gia đình xác lập, thực hiện vì lợi ích của hộ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của cả hộ gia đình”. Thực tế cho thấy, quy định này không phản ánh đúng vấn đề và gây ra nhiều khó khăn trong việc thi hành pháp luật. Chính vì vậy, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có những thay đổi liên quan đến quy định về tư cách chủ thể pháp luật dân sự của hộ gia đình. Theo quy định tại Điều 101 Bộ luật Dân sự năm 2015, “Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”.

Tuy nhiên, quy định này vẫn chưa chặt chẽ và rõ ràng. Chính vì vậy, hiện vẫn tồn tại hai quan điểm về tư cách chủ thể pháp luật dân sự của hộ gia đình, tổ hợp tác và các tổ chức không có tư cách pháp nhân. Một quan điểm cho rằng, hộ gia đình, tổ hợp tác và các tổ chức không có tư cách pháp nhân không có năng lực chủ thể, không thể đứng tên tham gia giao kết và thực hiện hợp đồng. Quan điểm khác cho rằng, Điều 101 Bộ luật Dân sự năm 2015 vẫn quy định “trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự”, ngầm hiểu là hộ gia đình, tổ hợp tác và các tổ chức không có tư cách pháp nhân vẫn có tư cách chủ thể, vẫn có quyền tham gia quan hệ dân sự. Khi vấn đề tư cách chủ thể của hộ gia đình trong pháp luật dân sự chưa được quy định rõ ràng, thì vấn đề tư cách thương nhân của hộ kinh doanh cũng chưa thể xác định một cách dứt khoát. Bởi lẽ, như đã khẳng định, việc xác định tư cách chủ thể của hộ gia đình trong pháp luật dân sự là cơ sở để xác định tư cách chủ thể của hộ kinh doanh trong luật thương mại.


TUYET NHUNG LAW cung cấp đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp và giàu kinh nghiệm xử lý các vụ án trên thực tế trong lĩnh vực Thương mại. Liên hệ tư vấn hoặc mời luật sư tham giao bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong các vụ án Thương mại tại Toà án và Trọng tài trong các tranh chấp liên quan đến Thương mại. Vui lòng liên hệ số điện thoại hotline: 0975.982.169 hoặc gửi yêu cầu qua email: buinhunglw2b@gmail.com để được hỗ trợ.

Theo dõi chúng tôi trên
4.3/5 - (6 bình chọn)
CÙNG CHỦ ĐỀ
Gọi luật sư Gọi luật sư Yêu cầu gọi lại Yêu cầu dịch vụ