1. Công ty đại chúng là gì?
Trong hoạt động chứng khoán, không phải mọi công ty cổ phần đều được xem là “công ty đại chúng”. Khái niệm này được quy định tại khoản 1 Điều 32 Luật Chứng khoán 2019:
“Điều 32. Công ty đại chúng
1. Công ty đại chúng là công ty cổ phần thuộc một trong hai trường hợp sau đây:
a) Công ty có vốn điều lệ đã góp từ 30 tỷ đồng trở lên, có vốn chủ sở hữu từ 30 tỷ đồng trở lên và có tối thiểu 10% số cổ phiếu có quyền biểu quyết do ít nhất 100 nhà đầu tư không phải cổ đông lớn nắm giữ
b) Công ty đã thực hiện chào bán thành công cổ phiếu lần đầu ra công chúng thông qua đăng ký với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước theo quy định tại khoản 1 Điều 16 của Luật này.”
Như vậy, chỉ công ty cổ phần mới được xem là công ty đại chúng, và điều này xảy ra trong hai trường hợp sau.
Trường hợp 1: Công ty đáp ứng điều kiện về quy mô và cơ cấu cổ đông – dù chưa chào bán cổ phiếu ra công chúng.
Trường hợp 2: Công ty đã thực hiện chào bán thành công cổ phiếu lần đầu
Bất kỳ công ty nào thực hiện chào bán thành công cổ phiếu lần đầu ra công chúng thông qua đăng ký với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước theo quy định tại khoản 1 Điều 16 của Luật này), thì đương nhiên trở thành công ty đại chúng
Như vậy, theo Luật Chứng khoán 2019, công ty đại chúng được xác định dựa trên quy mô vốn – cơ cấu cổ đông hoặc dựa trên việc chào bán cổ phiếu ra công chúng.
2. Khi nào cổ đông được phép chào bán cổ phiếu ra công chúng?
Căn cứ Điều 13 Nghị định 155/2020/NĐ-CP, cổ đông công ty đại chúng chỉ được phép chào bán cổ phiếu ra công chúng khi đáp ứng các điều kiện sau:
“Điều 13. Điều kiện chào bán cổ phiếu ra công chúng của cổ đông công ty đại chúng
1. Cổ phiếu được chào bán phải là cổ phiếu của doanh nghiệp đáp ứng điều kiện quy định tại điểm a khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 15 Luật Chứng khoán.
2. Trường hợp cổ đông đăng ký chào bán là tổ chức, phương án chào bán cổ phiếu phải được cấp có thẩm quyền của tổ chức đăng ký chào bán thông qua theo quy định tại Luật Doanh nghiệp và Điều lệ của cổ đông đăng ký chào bán.
3. Cổ phiếu được chào bán thuộc sở hữu của cổ đông đăng ký chào bán và là cổ phiếu tự do chuyển nhượng.
4. Có công ty chứng khoán tư vấn hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng, trừ trường hợp cổ đông đăng ký chào bán là công ty chứng khoán.
5. Cổ đông đăng ký chào bán phải mở tài khoản phong tỏa nhận tiền mua cổ phiếu của đợt chào bán.
6. Việc chào bán cổ phiếu đáp ứng quy định về tỷ lệ sở hữu nước ngoài tại công ty đại chúng có cổ phiếu được chào bán.
7. Có chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tài chính về việc cổ đông chuyển nhượng cổ phiếu của tổ chức tín dụng, tổ chức kinh doanh bảo hiểm trong trường hợp phải có sự chấp thuận theo quy định của pháp luật về các tổ chức tín dụng, pháp luật về kinh doanh bảo hiểm.”
Từ các quy định trên có thể thấy, cổ đông chỉ được phép chào bán ra công chúng khi cả cổ phiếu và chủ thể chào bán đều đáp ứng đồng thời các điều kiện luật định.
Trước hết, cổ phiếu chào bán phải thuộc doanh nghiệp đủ điều kiện theo Luật Chứng khoán: Cổ phiếu muốn bán ra công chúng phải đáp ứng điều kiện tại điểm a khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 15 Luật Chứng khoán. Cụ thể, nếu là lần đầu chào bán của công ty cổ phần, vốn điều lệ đã góp phải từ 30 tỷ đồng trở lên, tính theo giá trị ghi sổ kế toán. Nếu công ty đã là công ty đại chúng và muốn chào bán thêm cổ phiếu, thì hoạt động kinh doanh năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi và không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký chào bán. Như vậy, cổ phiếu chỉ được chào bán ra công chúng nếu công ty đảm bảo tình hình tài chính ổn định và đáp ứng điều kiện pháp lý về vốn.
Trường hợp cổ đông là tổ chức: Nếu cổ đông đứng ra chào bán là một tổ chức, phương án chào bán phải được cấp có thẩm quyền trong tổ chức phê duyệt, theo quy định Luật Doanh nghiệp và Điều lệ của cổ đông.
Cổ phiếu chào bán phải do cổ đông sở hữu và tự do chuyển nhượng: Cổ đông chỉ được phép bán những cổ phiếu mà mình thực sự sở hữu. Đồng thời, cổ phiếu này phải là cổ phiếu tự do chuyển nhượng, không bị hạn chế, đảm bảo quyền lợi của người mua và tránh tranh chấp pháp lý.
Phải có công ty chứng khoán tư vấn hồ sơ đăng ký: Trừ trường hợp cổ đông là công ty chứng khoán, việc thuê công ty chứng khoán tư vấn giúp chuẩn hóa hồ sơ, đảm bảo hồ sơ đăng ký chào bán tuân thủ đầy đủ quy định của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, giảm thiểu rủi ro pháp lý.
Cổ đông phải mở tài khoản phong tỏa để nhận tiền từ người mua: Mọi khoản tiền thu từ đợt chào bán phải được chuyển vào tài khoản phong tỏa, đảm bảo minh bạch và tuân thủ quy định quản lý vốn.
Đáp ứng quy định về tỷ lệ sở hữu nước ngoài: Nếu công ty đại chúng có cổ phần nước ngoài, việc chào bán phải bảo đảm không vượt trần tỷ lệ sở hữu nước ngoài, tránh vi phạm pháp luật về đầu tư nước ngoài.
Lưu ý: Trong trường hợp phải có sự chấp thuận theo quy định của pháp luật về các tổ chức tín dụng, pháp luật về kinh doanh bảo hiểm., việc cổ đông chuyển nhượng cổ phiếu của tổ chức tín dụng hoặc tổ chức kinh doanh bảo hiểm phải được chấp thuận bởi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoặc Bộ Tài chính.
Như vậy, cổ đông chỉ được phép chào bán cổ phiếu ra công chúng khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện của Điều 13 Nghị định 155/2020/NĐ-CP
3. Hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng của cổ đông
Để thực hiện chào bán cổ phiếu ra công chúng, cổ đông của công ty đại chúng phải chuẩn bị hồ sơ theo đúng quy định pháp luật. Căn cứ Điều 14 Nghị định 155/2020/NĐ-CP, hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng của cổ đông công ty đại chúng bao gồm:
(1) Giấy đăng ký chào bán theo Mẫu số 06 Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định này.
(2) Bản cáo bạch theo quy định tại Điều 19 Luật Chứng khoán.
(3) Quyết định của cấp có thẩm quyền của cổ đông đăng ký chào bán là tổ chức thông qua phương án chào bán, trong đó bao gồm: loại cổ phiếu chào bán; số lượng cổ phiếu chào bán; giá chào bán hoặc nguyên tắc xác định giá chào bán hoặc ủy quyền xác định giá chào bán.
(4) Sổ đăng ký cổ đông hoặc giấy xác nhận của Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam hoặc của thành viên lưu ký hoặc giấy chứng nhận sở hữu cổ phần.
(5) Báo cáo tài chính trong 02 năm gần nhất của tổ chức có cổ phiếu được chào bán theo quy định tại Điều 20 Luật Chứng khoán, trong đó trường hợp cổ đông đăng ký chào bán hoàn thiện hồ sơ sau 90 ngày kể từ ngày kết thúc kỳ kế toán năm, cổ đông đăng ký chào bán phải bổ sung báo cáo tài chính năm gần nhất được kiểm toán của tổ chức có cổ phiếu được chào bán.
(6) Hợp đồng tư vấn hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng với công ty chứng khoán, ngoại trừ trường hợp cổ đông đăng ký chào bán là công ty chứng khoán.
(7) Văn bản xác nhận của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài về việc cổ đông đăng ký chào bán mở tài khoản phong tỏa nhận tiền mua cổ phiếu của đợt chào bán.
(8) Quyết định của cấp có thẩm quyền của cổ đông đăng ký chào bán là tổ chức thông qua phương án đảm bảo việc chào bán cổ phiếu đáp ứng quy định về tỷ lệ sở hữu nước ngoài tại công ty đại chúng có cổ phiếu được chào bán.
(9) Văn bản chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tài chính về việc cổ đông chuyển nhượng cổ phiếu (nếu có).
Như vậy, hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng của cổ đông công ty đại chúng phải đầy đủ các thành phần nêu trên để được cơ quan quản lý chấp thuận. Việc chuẩn bị hồ sơ đúng, đầy đủ không chỉ giúp cổ đông thực hiện giao dịch hợp pháp mà còn đảm bảo minh bạch thông tin, bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư và tuân thủ các quy định về quản lý thị trường chứng khoán.
[EN]
[Consulted by: Lawyer Bui Thi Nhung]
This article addresses several legal issues, including: What is a public company? Who is entitled to compensation upon land recovery by the State? Under what circumstances may shareholders offer shares to the public? What constitutes the registration dossier for a public offering of shares by shareholders? The explanations herein are provided by Tuyet Nhung Bui Law Firm for reference purposes only.
1. What is a Public Company?
In securities activities, not all joint-stock companies are considered public companies. This concept is defined in Clause 1 Article 32 of the Law on Securities 2019:
“Article 32. Public companies
A public company means a joint-stock company falling under one of the following cases:
a) A company with paid-up charter capital of VND 30 billion or more, having owners’ equity of VND 30 billion or more, and having at least 10% of voting shares held by at least 100 investors who are not major shareholders;
b) A company that has successfully conducted its initial public offering through registration with the State Securities Commission in accordance with Clause 1 Article 16 of this Law.”
Accordingly, only joint-stock companies may be recognized as public companies, and this occurs in the following two scenarios:
Case 1: The company satisfies statutory requirements on size and shareholder structure, even without conducting a public offering.
Specifically, the company must:
+ Have paid-up charter capital of VND 30 billion or more;
+ Have owners’ equity of VND 30 billion or more;
+ Have at least 10% of voting shares held by at least 100 investors who are not major shareholders (as defined in Clause 18 Article 4 of the Law on Securities 2019).
Case 2: The company has successfully conducted its initial public offering.
Any company that successfully conducts an initial public offering (IPO) through registration with the State Securities Commission (as prescribed in Clause 1 Article 16 of the Law) shall automatically become a public company.
2. When Are Shareholders Permitted to Conduct a Public Offering of Shares?
Pursuant to Article 13 of Decree No. 155/2020/ND-CP, a shareholder of a public company may only offer shares to the public when all of the following conditions are satisfied:
“Article 13. Conditions for a Public Offering of Shares by Shareholders of a Public Company
The shares offered must be shares of an enterprise that satisfies the requirements prescribed in Point a Clause 1 and Point b Clause 2 Article 15 of the Law on Securities.
Where the offering shareholder is an organization, the offering plan must be approved by the competent authority of such organization in accordance with the Law on Enterprises and the charter of the offering shareholder.
The shares offered must be owned by the offering shareholder and must be freely transferable.
A securities company must advise on the registration dossier for the public offering, except where the offering shareholder is itself a securities company.
The offering shareholder must open an escrow account to receive proceeds from the public offering.
The offering must comply with regulations on foreign ownership limits in the public company whose shares are offered.
Approval from the State Bank of Vietnam or the Ministry of Finance is required for the transfer of shares in a credit institution or an insurance enterprise, where such approval is required by the laws on credit institutions and the laws on insurance business.”
From the above provisions, it is clear that a shareholder may only conduct a public offering when both the shares and the offering shareholder simultaneously satisfy all statutory conditions.
The shares must meet the eligibility requirements under the Law on Securities Shares intended for a public offering must meet the requirements set out in Point a Clause 1 and Point b Clause 2 Article 15 of the Law on Securities. Accordingly:
+ For the initial public offering of a joint-stock company, the company must have paid-up charter capital of at least VND 30 billion, calculated based on the book value in accounting records.
+ For a public company offering additional shares, the business operation of the year immediately preceding the year of registration must be profitable and the company must have no accumulated losses up to the year of registration.
Therefore, shares may only be publicly offered when the issuer maintains financial stability and satisfies statutory capital and financial requirements.
Where the shareholder is an organization If the offering shareholder is an organization, its public offering plan must be approved by the competent internal authority, in accordance with the Law on Enterprises and the organizational charter
The shares must be owned by the shareholder and freely transferable Shareholders may only offer shares that they legally own. Additionally, the shares must be freely transferable, without any restrictions, in order to protect investor rights and avoid potential legal disputes.
A securities company must advise on the offering dossier Except where the offering shareholder is a securities company, engaging a securities company to advise on the application dossier ensures compliance with regulations of the State Securities Commission and minimizes legal risks associated with the offering.
The shareholder must open an escrow account All proceeds from the public offering must be deposited into an escrow account, ensuring transparency and compliance with capital management regulations.
Compliance with foreign ownership limits If the public company has foreign shareholders, the public offering must not exceed the statutory foreign ownership cap, thereby ensuring compliance with regulations on foreign investment.
Approval required for certain sectors In cases where the transfer of shares in a credit institution or insurance enterprise requires regulatory approval, the offering shareholder must obtain approval from the State Bank of Vietnam or the Ministry of Finance, respectively.
In conclusion, shareholders may only conduct a public offering of shares when all conditions under Article 13 of Decree No. 155/2020/ND-CP are fully satisfied.
3. Registration Dossier for a Public Offering of Shares by Shareholders
To conduct a public offering of shares, shareholders of a public company must prepare a dossier in accordance with statutory requirements. Pursuant to Article 14 of Decree No. 155/2020/ND-CP, the registration dossier for a public offering of shares by shareholders of a public company includes:
(1) An Application for Public Offering, using Form No. 06 of the Appendix promulgated together with this Decree.
(2) A Prospectus prepared in accordance with Article 19 of the Law on Securities.
+ The type of shares to be offered;
+ The number of shares to be offered;
+ The offering price, or the pricing principles, or the authorization for price determination.
(4) The shareholders’ register, or a confirmation issued by the Vietnam Securities Depository and Clearing Corporation (VSDC), or a depository member, or a certificate of share ownership.
(5) The financial statements of the two most recent years of the organization whose shares are offered, prepared in accordance with Article 20 of the Law on Securities.
Where the offering shareholder finalizes the dossier more than 90 days from the end of the fiscal year, the shareholder must provide the latest audited annual financial statements of the organization whose shares are offered.
(6) A consulting contract for the preparation of the registration dossier for the public offering with a securities company, except where the offering shareholder is itself a securities company.
(7) A written confirmation from a bank or foreign bank branch regarding the opening of an escrow account for receipt of proceeds from the public offering.
(8) A Resolution of the competent authority of the offering shareholder (where the shareholder is an organization) approving the plan to ensure compliance with foreign ownership limits applicable to the public company whose shares are offered.
(9) Written approval from the State Bank of Vietnam or the Ministry of Finance regarding the transfer of shares, where such approval is required (if applicable).
Accordingly, the registration dossier for a public offering of shares by shareholders of a public company must include all the above-mentioned documents in order to obtain approval from the regulatory authority. Preparing a complete and legally compliant dossier not only enables shareholders to conduct transactions lawfully but also ensures information transparency, protects investor interests, and maintains compliance with securities market regulatory requirements.
TUYET NHUNG LAW cung cấp đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp và giàu kinh nghiệm xử lý các vụ án trên thực tế trong lĩnh vực doanh nghiệp. Liên hệ tư vấn, hỗ trợ các thủ tục liên quan đến đăng ký doanh nghiệp, mời luật sư tham giao bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong các vụ án liên quan đến doanh nghiệp tại Toà án và Trọng tài và hỗ trợ xử lý các vấn đề phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp. Vui lòng liên hệ số điện thoại hotline: 0975.982.169 hoặc gửi yêu cầu qua email: lienhe@tuyetnhunglaw.vn để được hỗ trợ.