Bài viết đề cập nội dung pháp lý liên quan đến Khi nào phải chia lợi nhuận? Công ty không chịu chia lợi nhuận phải làm sao? và bản án thực tế có liên quan được Công Ty Luật Tuyết Nhung Bùi giải đáp và cung cấp sử dụng vào mục đích tham khảo.
The article discusses legal matters related to “When must profits be distributed?” and “What to do if a company refuses to distribute profits?” along with a relevant court ruling. These issues are addressed and provided by Tuyet Nhung Bui Law Firm for reference purposes.
1. Khi nào phải chia lợi nhuận?
Theo Điều 69 Luật Doanh nghiệp 2020, công ty chỉ được phân chia lợi nhuận cho các thành viên sau khi đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật, đồng thời phải bảo đảm thanh toán đầy đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác đến hạn sau khi chia lợi nhuận.
Như vậy, công ty chỉ phải chia lợi nhuận khi có lãi.
[EN]
When must profits be distributed?
According to Article 69 of the 2020 Enterprise Law, a company may only distribute profits to its members after fully fulfilling tax obligations and other financial obligations as prescribed by law. Additionally, it must ensure full payment of all due debts and other financial liabilities after profit distribution.
Therefore, a company is only required to distribute profits when it generates a profit.
2. Công ty không chịu chia lợi nhuận phải làm sao?
Theo quy định pháp luật hiện hành, trong trường hợp công ty không chịu chia lợi nhuận thì các bên có thể lựa chọn các phương thức dưới đây để giải quyết tranh chấp đòi phân chia lợi nhuận:
Thứ nhất, Thương lượng
Đây là một phương thức giải quyết tranh chấp mà không cần sự can thiệp của bên thứ ba. Các bên tự nguyện ngồi lại trao đổi, thỏa thuận với tinh thần thiện chí nhằm tìm ra giải pháp thống nhất, đảm bảo quyền lợi của cả hai bên.
Thứ hai, Hòa giải
Phương thức này có sự tham gia của bên thứ ba, thường là một trung gian có kinh nghiệm, giúp đảm bảo tính công bằng và tăng khả năng tôn trọng quyết định hòa giải. Hòa giải mang lại sự linh hoạt trong quá trình giải quyết tranh chấp và không bị ràng buộc bởi các quy định nghiêm ngặt như khi giải quyết tại tòa án.
Thứ ba, Trọng tài
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài dựa trên sự thỏa thuận giữa các bên và tuân theo Luật Trọng tài thương mại. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp. Phán quyết trọng tài có giá trị bắt buộc và mang tính chung thẩm, trừ trường hợp các bên yêu cầu hủy phán quyết theo Điều 68 và Điều 69 Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Phương thức này giúp tăng tính minh bạch và đảm bảo công bằng trong quá trình giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên phải có sự thoả thuận lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp.
Thứ tư, Tòa án
Đây là phương thức giải quyết tranh chấp cuối cùng khi các bên không thể đạt được thỏa thuận thông qua thương lượng hoặc hòa giải. Các bên tranh chấp có thể nộp đơn khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu giải quyết. Quyết định của Tòa án mang tính bắt buộc và nếu không chấp hành sẽ bị cưỡng chế thi hành theo quy định của pháp luật.
[EN]
What to do if a company refuses to distribute profits?
Under current legal regulations, if a company refuses to distribute profits, the parties involved may choose one of the following methods to resolve the dispute over profit distribution:
First, Negotiation
This is a dispute resolution method that does not require third-party intervention. The parties voluntarily sit down to discuss and negotiate in good faith to reach a mutual agreement that ensures the interests of both sides.
Second, Mediation
This method involves a third party, usually an experienced intermediary, to help ensure fairness and increase the likelihood that the mediation decision will be respected. Mediation provides flexibility in dispute resolution and is not bound by strict legal procedures like court proceedings.
Third, Arbitration
Dispute resolution through arbitration is based on the agreement between the parties and follows the Commercial Arbitration Law. The arbitration agreement can be made before or after the dispute arises. An arbitral award is binding and final, except in cases where the parties request annulment under Articles 68 and 69 of the 2010 Commercial Arbitration Law. This method enhances transparency and fairness in dispute resolution. However, both parties must agree to resolve the dispute through arbitration.
Fourth, Court Proceedings
This is the final dispute resolution method when the parties cannot reach an agreement through negotiation or mediation. The disputing parties may file a lawsuit with the competent court to request a resolution. A court ruling is legally binding, and non-compliance may result in enforcement measures as prescribed by law.
3. Bản án thực tế
Tải về: Bản án phúc thẩm số 82 TAND tỉnh Đăk Lăk ngày 16:5:2019
TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 01/12/2017, đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đề ngày 08/11/2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa phía nguyên đơn trình bày:
Về tiền vốn góp: Căn cứ phương án và thông báo số 125/TB-KS ngày 19/10/2004 về việc huy động vốn đầu tư thiết bị sản xuất đá khô CO2, thông báo số 56/TB-KS ngày 29/3/2005 về việc huy động vốn đầu tư bổ sung thiết bị sản xuất đá khô CO2 của Công ty cổ phần khoáng sản Đ: Mục đích của vốn góp là để mua thiết bị sản xuất đá khô CO2; Huy động mức thấp nhất là 5.000.000đ/cán bộ công nhân,
viên chức, thời gian trả gốc vốn huy động là 04 năm; sau khi đã trừ tất cả các chi phí cho hoạt động sản xuất, kinh doanh đá khô CO2, nghĩa vụ thuế cho nhà nước và chi phí quản lý công ty thì phần còn lại tức là lợi nhuận sau thuế chia theo tỷ lệ góp vốn. Công ty huy động vốn 02 đợt với tổng số tiền là 1.005.540.000đ.
Bà L đã góp vốn 02 lần, cụ thể: Đợt 01 vào tháng 10/2004 với số tiền góp là 15.000.000đ và đợt 02 vào tháng 3/2005 với số tiền góp là 10.000.000đ. Đến tháng 8/2009, Công ty đã hoàn vốn góp đợt 01 cho bà L số tiền 15.000.000đ. Còn tiền góp vốn đợt 02 là 10.000.000đ (Mười triệu đồng), đến nay Công ty vẫn chưa trả.
Về phần chia lợi nhuận: Căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh đá khô CO2 và Nghị quyết của Hội đồng quản trị Công ty về việc chia lợi nhuận thì Công ty chia theo tỷ lệ vốn góp.
Bà L đã được nhận tiền chia lợi nhuận từ việc sản xuất, kinh doanh đá khô CO2 từ khi góp vốn đến hết năm 2013. Mặc dù không có văn bản nào quy định về việc chia lợi nhuận đối với số tiền đã hoàn vốn, tuy nhiên thực tế từ năm 2009 đến năm 2013, bà L vẫn được chia lợi nhuận đối với số tiền 15.000.000đ mà Công ty đã hoàn vốn đợt 1 cho bà Liễu vào tháng 8/2009.
Năm 2012, Công ty và phía những người góp vốn (trong đó có bà L) thỏa thuận về việc chia lại lợi nhuận nên Hội đồng quản trị của Công ty đã ban hành Nghị quyết số 61/NQ-HĐQT-KS ngày 10/11/2012, có nội dung: Lợi nhuận sau thuế, sau khi đã trừ 5% quỹ phúc lợi sẽ được chia đều theo tỷ lệ 50/50 (mỗi bên được hưởng 50%), thời hạn thực hiện từ ngày 01/01/2012 đến ngày 31/12/2015 thanh lý 02 dự án.
Căn cứ thỏa thuận trên và căn cứ báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh năm 2014, năm 2015 của chi nhánh Công ty tại thành phố Hồ Chí Minh thì phần lợi nhuận được xác định như sau:
+ Năm 2014: Lợi nhuận sau thuế của việc sản xuất kinh doanh đá khô CO2 là 520.604.000đ – 5% quỹ phúc lợi và 50% để lại cho Công ty theo Nghị quyết 61 thì phần lợi nhuận của những người góp vốn là 247.287.000đ. Tổng số tiền vốn góp của những người góp vốn là 1.005.540.000đ, do đó tỷ lệ % lợi nhuận của vốn góp được chia là 247.287.000đ : 1.005.540.000đ= 24,59%. Phần lợi nhuận mà bà Liễu phải được chia là: 25.000.000đ x 24,59% = 6.147.500đ (sáu triệu một trăm bốn mươi bảy nghìn năm trăm đồng).
+ Năm 2015: Lợi nhuận sau thuế của việc sản xuất kinh doanh đá khô CO2 là 399.860.154đ – 5% quỹ phúc lợi và 50% để lại cho công ty theo Nghị quyết 61 thì phần lợi nhuận của những người góp vốn là 189.933.577đ. Tổng số tiền vốn góp của những người góp vốn là 1.005.540.000đ, do đó tỷ lệ % lợi nhuận của vốn góp được chia là 189.933.577đ : 1.005.540.000đ = 18,88%. Phần lợi nhuận mà bà L phải được chia là: 25.000.000đ x 18,88% = 4.720.000đ.
Tổng số tiền lợi nhuận của năm 2014, năm 2015 là: 10.867.500đ (mười triệu tám trăm sáu mươi bảy nghìn năm trăm đồng).
Theo Nghị quyết 61 thì ngày 31/12/2015 là ngày thanh lý 02 (hai) dự án đá khô CO2 nên yêu cầu Công ty phải trả cho bà Lê Thị Hồng L tiền vốn góp lần 02 là 10.000.000đ và lợi nhuận của hai năm (năm 2014 và năm 2015) là 10.867.500đ, tổng cộng là 20.867.500đ. Đồng thời, phía Công ty phải trả tiền lãi đối với toàn bộ
số tiền trên theo lãi suất chậm trả mà pháp luật quy định từ ngày 01/01/2016 đến ngày xét xử sơ thẩm.
-Tại bản tự khai ngày 11/01/2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa người đại diện ủy quyền bị đơn trình bày:
Về tiền vốn góp: Công ty cổ phần khoáng sản Đ có phê duyệt phương án huy động vốn đầu tư thiết bị sản xuất đá khô CO2 và ban hành thông báo số 125/TB-KS ngày 19/10/2004 về việc huy động vốn đầu tư thiết bị sản xuất đá khô CO2, thông báo số 56/TB-KS ngày 29/3/2005 về việc huy động vốn đầu tư bổ sung thiết bị sản xuất đá khô CO2 là đúng. Thiết bị máy để sản xuất đá khô CO2 lần 1 và lần 2 là do Công ty trực tiếp mua từ nguồn vốn huy động của cán bộ, công nhân viên theo phương án huy động vốn nói trên. Trong đó, bà Lê Thị Hồng L đã góp vốn 02 đợt với tổng số tiền là 25.000.000đ (đợt 01 góp vốn 15.000.000đ và đợt 02 góp vốn 10.000.000đ). Đến tháng 8/2009, Công ty đã hoàn trả vốn góp đợt 01 cho bà Liễu là 15.000.000đ, hiện còn nợ vốn góp của đợt 02 là 10.000.000đ (mười triệu đồng).
Về phần chia lợi nhuận: căn cứ vào báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh đá khô CO2 hàng năm của chi nhánh Công ty cổ phần khoáng sản Đ tại thành phố Hồ Chí Minh (chi nhánh này trực tiếp quản lý thiết bị và sản xuất đá khô CO2), Hội đồng quản trị của Công ty ban hành Nghị quyết về việc chia lợi nhuận cho những người góp vốn. Đối với bà L đã được chia lợi nhuận đến hết năm 2013.
Mặc dù, không có văn bản thỏa thuận nào giữa Công ty và người góp vốn về việc chia lợi nhuận đối với phần vốn góp đã hoàn trả. Nghị quyết của Hội đồng quản trị của Công ty không nói rõ chia lợi nhuận cho những người đã được hoàn vốn, nhưng trên thực tế thì phần vốn góp đã được hoàn trả vẫn được chia lợi nhuận hàng năm cho những người đã được hoàn vốn đợt 1, trong đó có bà L.
Ngày 10/11/2012, Công ty có ban hành Nghị quyết số 61/NQ-HĐQT-KS và tại Điều 11 quy định: lợi nhuận sau thuế sau khi trừ 5% quỹ phúc lợi sẽ được chia đều theo tỷ lệ 50/50 (mỗi bên được hưởng 50%). Giá bán CO2 theo thị trường tại chi nhánh Đắk Nông cộng với giá vận chuyển từ Đắk Nông đi Thành phố Hồ Chí Minh, thời hạn thực hiện từ ngày 01/01/2012 đến ngày 31/12/2015 thanh lý 02 dự án. Tiêu đề là Nghị quyết Hội đồng quản trị Công ty cổ phần khoáng sản Đ tháng 11- tháng 12/2012 (nhiệm kỳ 2011 – 2015) nên chỉ có giá trị thực hiện trong hai tháng (11 và 12/2012), còn Điều 11 của Nghị quyết 61 có hiệu lực đến ngày 31/12/2015 hay không thì không rõ. Tuy nhiên đến nay, Hội đồng quản trị không ban hành Nghị quyết nào để phủ nhận Điều 11 của Nghị quyết 61.
Hàng năm, Công ty cổ phần khoáng sản Đ có báo cáo tài chính về hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó có phần lợi nhuận của các hạng mục mà không tách rời phần sản xuất kinh doanh đá khô CO2. Đối với phần sản xuất đá khô CO2 là do chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh tính giá thành, báo cáo lợi nhuận, xác định: lợi nhuận sau thuế của đá khô CO2 năm 2014 là 520.604.000đ và năm 2015 là 399.860.154đ như nguyên đơn trình bày là có cơ sở. Tuy nhiên, căn cứ vào Điều 11 Nghị quyết 61 thì năm 2016, Công ty có tính lại theo bảng tính giá thành đá khô năm 2014 và năm 2015 là 3.100đ/ký, trong khi đó: giá nguyên liệu CO2 lỏng bán lẻ tại chi nhánh Đắk Nông năm 2014 là 3.900đ/ký và năm 2015 là 3.800đ/ký. Do đó, Công ty ban hành Công văn 39/CV-KS ngày 20/4/2016 và thông báo số 44/TB- HĐQT/2016 ngày 12/4/2016, xác định: Năm 2014 việc sản xuất kinh doanh đá khô
CO2 không có lợi nhuận mà lỗ số tiền 105.706.208đ và năm 2015 việc sản xuất kinh doanh đá khô CO2 không có lợi nhuận mà lỗ số tiền 30.787.646đ.
Vì vậy, Công ty chỉ đồng ý trả cho nguyên đơn bà Lê Thị Hồng L số tiền vốn góp đợt 2 là 10.000.000đ (mười triệu đồng) và tiền lãi chậm trả đối với số tiền này ngày 01/01/2016 đến nay theo mức lãi suất mà pháp luật quy định. Không chấp nhận yêu cầu trả phần lợi nhuận của năm 2014 và năm 2015 cùng với tiền lãi chậm trả đối với phần lợi nhuận này, do 02 năm này việc sản xuất kinh doanh đá khô CO2 bị thua lỗ.
Taị bản án dân sự sơ thẩm số 32/2018/DS-ST ngày 28/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Ea Kar đã quyết định:
Áp dụng khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, Điều 39, khoản 3 Điều 144, khoản 1 Điều 147 và Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 256, khoản 2 Điều 305 Bộ luật Dân sự năm 2005; khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Buộc bị đơn Công ty cổ phần khoáng sản Đ phải trả cho nguyên đơn bà Lê Thị Hồng L tổng số tiền 20.867.500đ (hai mươi triệu tám trăm sáu mươi bảy nghìn năm trăm đồng). Trong đó: tiền góp vốn đợt 2 là 10.000.000đ; tiền lợi nhuận của năm 2014 và năm 2015 là 10.867.500đ.
Về tiền lãi chậm trả: Buộc bị đơn Công ty cổ phần khoáng sản Đ phải trả cho nguyên đơn bà Lê Thị Hồng L tổng số tiền lãi chậm trả từ ngày 01/01/2016 đến ngày xét xử sơ thẩm là 5.893.000đ (năm triệu tám trăm chín mươi ba nghìn đồng).
Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của nguyên đơn bà Lê Thị Hồng L về yêu cầu buộc Công ty cổ phần khoáng sản Đ phải trả lại toàn bộ tài sản của nhóm người góp vốn đầu tư hoặc định giá tài sản là hệ thống máy sản xuất đá khô CO2 theo giá thực tế để trả bằng tiền và yêu cầu Công ty cổ phần khoáng sản Đ phải trả lợi nhuận của năm 2016 và năm 2017.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo, quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án cho các đương sự.
Ngày 07/12/2018 bị đơn Công ty cổ phần khoáng sản Đ kháng cáo một phần bản án sơ thẩm với nội dung: không đồng ý thanh toán lợi nhuận 02 năm 2014, 2015 và tiền lãi chậm trả của số tiền trên.
Taị phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên nội dung yêu cầu khởi kiện và bị đơn giữa nguyên nội dung kháng cáo. Các bên đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tại phiên toà:
– Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm cũng như các đương sự đã tuân thủ đầy đủ và thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
– Về nội dung: Theo khoản 11 Điều II của Nghị quyết số 61/NQ-HĐQT-KS ngày 10/11/2012 của Hội đồng quản trị Công ty cổ phần khoáng sản Đ nêu rõ: “Chấp thuận tờ trình số 5/CV-KS của Giám đốc Công ty v/v đề nghị tính toán lại chi phí nộp và phân chia lợi nhuận của hai dự án đá khô… Thời gian thực hiện từ ngày 01/01/2012 đến 3/12/2015 thanh lý 02 dự án”. Từ khi có Nghị quyết 61, giữa Công ty và người góp vốn không có văn bản thỏa thuận nào khác và cũng không có
Nghị quyết nào thay thế, do đó Công ty phải thanh toán lợi nhuận cho người góp vốn đến khi thanh lý 02 dự án. Về lợi nhuận: Theo báo cáo tài chính của Công ty thì năm 2014 và 2015 Công ty vẫn có lợi nhuận. Công ty không thanh toán lợi nhận cho người góp vốn là không đúng. Vì vậy, kháng cáo của bị đơn là không có căn cứ chấp nhận, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận đơn kháng cáo của Công ty cổ phần khoáng sản Đ và giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2018/DS-ST ngày 28/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Ea Kar.
TOÀ ÁN CẤP PHÚC THẨM TUYÊN XỬ:
– Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.
– Áp dụng Điều 256, khoản 2 Điều 305 Bộ luật Dân sự năm 2005; khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015.
[1] Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn Công ty cổ phần khoáng sản Đ, sửa bản án DSST số 32/2018/DS-ST ngày 28/11/2018 của Toà án nhân dân huyện Ea Kar.
Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị Hồng L.
1/ Buộc bị đơn Công ty cổ phần khoáng sản Đ phải trả cho nguyên đơn bà Lê Thị Hồng L tổng số tiền 18.973.907đ. Trong đó: tiền góp vốn đợt 2 là 10.000.000đ; tiền lợi nhuận của năm 2014 và năm 2015 là 4.347.000đ; tiền lãi chậm trả từ ngày 01/01/2016 đến ngày xét xử sơ thẩm là 4.626.907đ.
Áp dụng Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015 để tính lãi suất đối với số tiền chậm trả, kể từ khi có đơn yêu cầu của người được thi hành án.
2/ Bác một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn trả 6.520.500đ, là lợi nhuận năm 2014 – 2015 của số tiền đã được công ty hoàn vốn.
[2] Về án phí
[2.1] Án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Lê Thị Hồng L phải chịu 326.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm được khấu trừ số tiền 878.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại chi cục Thi hành án dân sự thành phố B theo biên lai thu số AA/2016/0004870 ngày 21/12/2017, bà L được nhận lại 552.000 đồng.
Công ty cổ phần khoáng sản Đ phải chịu 948.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
[2.2] Án phí dân sự phúc thẩm: Công ty cổ phần khoáng sản Đ không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả lại số tiền 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số AA/2017/0004749 ngày 10/12/2018 mà Công ty cổ phần khoáng sản Đ đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
[3]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm, không có kháng cáo, không bị kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
[EN]
Download: Appellate Judgment No. 82 of the People’s Court of Đắk Lắk Province dated May 16, 2019
CASE SUMMARY
In the lawsuit petition dated December 1, 2017, the request for partial withdrawal of the lawsuit dated November 8, 2018, and during the process of resolving the case as well as at the trial, the plaintiff presented the following:
Regarding the contributed capital:
Based on the plan and Notification No. 125/TB-KS dated October 19, 2004, on mobilizing investment capital for CO2 dry ice production equipment, and Notification No. 56/TB-KS dated March 29, 2005, on mobilizing additional investment capital for CO2 dry ice production equipment by Đ Mineral Joint Stock Company, the purpose of the capital contribution was to purchase CO2 dry ice production equipment. The minimum capital mobilization amount was VND 5,000,000 per staff member, with a capital repayment period of four years. After deducting all production and business costs, tax obligations, and company management expenses, the remaining amount—post-tax profit—was distributed according to the capital contribution ratio. The company mobilized capital in two phases, with a total amount of VND 1,005,540,000.
Ms. L contributed capital twice:
First phase: October 2004, with an amount of VND 15,000,000.
Second phase: March 2005, with an amount of VND 10,000,000.
In August 2009, the company reimbursed Ms. L’s capital contribution for the first phase in the amount of VND 15,000,000. However, the second phase contribution of VND 10,000,000 (ten million VND) has not yet been repaid.
Regarding profit distribution:
Based on the business performance of CO2 dry ice production and the company’s Board of Directors’ resolution on profit distribution, the company distributed profits according to the capital contribution ratio.
Ms. L received profit distributions from CO2 dry ice business activities from the time of her capital contribution until the end of 2013. Although no document explicitly stipulated profit distribution for refunded capital, in practice, from 2009 to 2013, Ms. L continued to receive profit distribution on the VND 15,000,000 that the company had reimbursed in August 2009.
In 2012, the company and investors (including Ms. L) reached an agreement on profit redistribution. Accordingly, the company’s Board of Directors issued Resolution No. 61/NQ-HĐQT-KS dated November 10, 2012, which stated:
Post-tax profits, after deducting 5% for the welfare fund, would be evenly distributed at a 50/50 ratio (each party receiving 50%).
This resolution was valid from January 1, 2012, to December 31, 2015, when the two projects were liquidated.
Based on this agreement and the business reports for 2014 and 2015 from the company’s branch in Ho Chi Minh City, the profit shares were calculated as follows:
2014:
Post-tax profit from CO2 dry ice business: VND 520,604,000
After deducting 5% for the welfare fund and 50% retained by the company per Resolution 61, the profit allocated to investors was VND 247,287,000.
Total contributed capital: VND 1,005,540,000 → Profit-sharing ratio: 24.59%.
Ms. L’s share: VND 25,000,000 × 24.59% = VND 6,147,500.
2015:
Post-tax profit from CO2 dry ice business: VND 399,860,154
After deducting 5% for the welfare fund and 50% retained by the company per Resolution 61, the profit allocated to investors was VND 189,933,577.
Total contributed capital: VND 1,005,540,000 → Profit-sharing ratio: 18.88%.
Ms. L’s share: VND 25,000,000 × 18.88% = VND 4,720,000.
Total profit for 2014 and 2015: VND 10,867,500.
According to Resolution 61, December 31, 2015, marked the liquidation of the two CO2 dry ice projects. Thus, the company was required to pay Ms. Lê Thị Hồng L the VND 10,000,000 from the second capital contribution and VND 10,867,500 in profit for 2014 and 2015, totaling VND 20,867,500. Additionally, the company must pay interest on the entire amount based on the legally stipulated late payment interest rate from January 1, 2016, until the date of the first-instance trial.
THE APPELLATE COURT RULES:
Pursuant to Clause 2, Article 308 of the Civil Procedure Code; Resolution No. 326/2016/UBTVQH14 dated December 30, 2016, of the Standing Committee of the National Assembly on court fees and charges.
Applying Article 256 and Clause 2, Article 305 of the 2005 Civil Code; Clause 2, Article 357 of the 2015 Civil Code.
[1] Acceptance of Partial Appeal and Modification of First-Instance Judgment
The court accepts part of the appeal of the defendant, Đ Mineral Joint Stock Company, and modifies the first-instance judgment No. 32/2018/DS-ST dated November 28, 2018, of the People’s Court of Ea Kar District.
Judgment: The court accepts part of the lawsuit petition filed by the plaintiff, Mrs. Lê Thị Hồng L.
The defendant, Đ Mineral Joint Stock Company, is ordered to pay the plaintiff, Mrs. Lê Thị Hồng L., a total amount of 18,973,907 VND, including:
Second capital contribution installment: 10,000,000 VND
Profits for the years 2014 and 2015: 4,347,000 VND
Interest on late payment from January 1, 2016, to the date of the first-instance trial: 4,626,907 VND
Pursuant to Article 357 of the 2015 Civil Code, interest on the overdue amount shall be calculated from the date the judgment creditor submits an enforcement request.
The court rejects part of the plaintiff’s lawsuit petition requesting the defendant to pay an additional 6,520,500 VND, which was the profit for 2014-2015 on the amount that had already been reimbursed by the company.
[2] Court Fees
[2.1] First-Instance Civil Court Fees:
Plaintiff Mrs. Lê Thị Hồng L. shall bear 326,000 VND in first-instance civil court fees. This amount is deducted from the 878,000 VND previously advanced as court fees at the Civil Judgment Enforcement Department of City B, under receipt No. AA/2016/0004870 dated December 21, 2017. Mrs. L. is entitled to a refund of 552,000 VND.
Defendant Đ Mineral Joint Stock Company shall bear 948,000 VND in first-instance civil court fees.
[2.2] Appellate Civil Court Fees:
Đ Mineral Joint Stock Company is not required to pay appellate civil court fees. The company is entitled to a refund of 300,000 VND, which was the appellate court fee advance, per receipt No. AA/2017/0004749 dated December 10, 2018, submitted at the Civil Judgment Enforcement Department of District E, Đắk Lắk Province.
[3] Other Decisions
Other parts of the first-instance judgment that were not appealed or protested remain legally binding from the expiration date of the appeal and protest period.
If the judgment or decision is enforced under Article 2 of the Law on Civil Judgment Enforcement, the judgment creditor and judgment debtor have the right to agree on enforcement, request enforcement, voluntarily comply, or be subject to compulsory enforcement in accordance with Articles 6, 7, and 9 of the Law on Civil Judgment Enforcement. The statute of limitations for enforcement shall comply with Article 30 of the Law on Civil Judgment Enforcement.
TUYET NHUNG LAW cung cấp đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp và giàu kinh nghiệm xử lý các vụ án trên thực tế trong lĩnh vực doanh nghiệp. Liên hệ tư vấn, hỗ trợ các thủ tục liên quan đến đăng ký doanh nghiệp, mời luật sư tham giao bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong các vụ án liên quan đến doanh nghiệp tại Toà án và Trọng tài và hỗ trợ xử lý các vấn đề phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp. Vui lòng liên hệ số điện thoại hotline: 0975.982.169 hoặc gửi yêu cầu qua email: lienhe@tuyetnhunglaw.vn để được hỗ trợ.