1. Điều 108 Tội phản bội Tổ quốc
“Điều 108. Tội phản bội Tổ quốc
1. Công dân Việt Nam nào câu kết với nước ngoài nhằm gây nguy hại cho độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tiềm lực quốc phòng, an ninh, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
2. Phạm tội trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Tội phản bội tổ quốc là gì?
Tội phản bội Tổ quốc được xem là một trong những tội phạm nghiêm trọng nhất, đe dọa an ninh quốc gia của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ban đầu, tội này được quy định trong Pháp lệnh trừng trị tội phản cách mạng năm 1967 và Sắc luật số 03 năm 1976. Sau đó, nó tiếp tục được điều chỉnh và quy định trong Bộ luật hình sự lần đầu tiên năm 1985.
Hiện nay, tội phản bội Tổ quốc vẫn được coi là một tội phạm cực kỳ nghiêm trọng, được chi tiết và quy định rõ trong Điều 108 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi và bổ sung vào năm 2017. Theo đó, phản bội Tổ quốc được định nghĩa là hành vi của công dân Việt Nam liên kết với người nước ngoài với mục đích gây nguy hại cho độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, cũng như làm tổn thương chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cũng như tiềm lực quốc phòng và an ninh của Việt Nam.
3. Cấu thành tội phản bội tổi quốc
3.1. Về mặt khách quan của tội phạm
- Tội phản bội Tổ quốc thể hiện qua việc công dân Việt Nam hợp tác với người nước ngoài. Hợp tác này đồng nghĩa với việc người phạm tội có mối quan hệ mật thiết với nước ngoài, đồng lòng thực hiện các hoạt động chống phá chủ nghĩa xã hội và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Hành vi hợp tác với người nước ngoài, như được định nghĩa trong khía cạnh khách quan của Tội phản bội Tổ quốc, bao gồm các hành động sau đây:
- Bàn bạc với nước ngoài về mưu đồ chính trị và các khía cạnh khác, nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Nhận sự hỗ trợ từ nước ngoài về mặt tài chính, vũ khí hoặc công nghệ, hoặc lợi ích vật chất khác để phục vụ cho hoạt động chống phá cách mạng ở Việt Nam.
- Thực hiện hoạt động dựa vào sức mạnh của nước ngoài, gây tổn thương đến độc lập, chủ quyền, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Hỗ trợ nước ngoài trong các hoạt động chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Hậu quả của tội phạm: Là gây nguy hại hoặc đe dọa sự độc lập, chủ quyền, thống nhất, và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, cũng như gây tổn thương cho chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tiềm lực quốc phòng và an ninh.
- Lưu ý rằng hành vi hợp tác với người nước ngoài khác biệt với các hành vi phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia, trong đó có mối liên hệ với nước ngoài, trong các tình huống có sự phối hợp giữa người phạm tội và người nước ngoài trong các hoạt động chống lại Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Hành vi điều tra và thu thập tin tức tình báo của nội gián theo sự chỉ đạo của nước ngoài không được coi là “hợp tác” với người nước ngoài. Tương tự, hành vi liên quan đến việc công dân Việt Nam trốn ở lại nước ngoài để chống chính quyền nhân dân cũng không được coi là “hợp tác” với người nước ngoài.
3.2. Về mặt chủ quan của tội phạm
- Người phạm tội thực hiện hành vi với ý định trực tiếp.
- Theo quy định của Bộ luật hình sự 2015, họ có nhận thức rõ về tính nguy hiểm của hành vi, dự đoán hậu quả, và mong muốn những hậu quả đó xảy ra.
3.3. Mặt khách thể của tội phạm
- Tội phạm xâm phạm các quan hệ liên quan đến an ninh quốc gia, bao gồm độc lập, chủ quyền, thống nhất, và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cũng như tiềm lực quốc phòng và an ninh.
3.4. Về mặt chủ thể của tội phạm
- Công dân Việt Nam (người mang quốc tịch Việt Nam) với đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.
-
Chủ thể của Tội phản bội Tổ quốc chỉ được xác định là công dân Việt Nam, tức là những người mang quốc tịch Việt Nam. Những cá nhân không phải là công dân Việt Nam, bao gồm người nước ngoài và những người không có quốc tịch Việt Nam, không được coi là chủ thể của Tội phản bội Tổ quốc. Điều này là do khái niệm “Tổ quốc” trong ngữ cảnh này được hiểu là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đối với công dân Việt Nam, để bị kết án về tội phản bội Tổ quốc, họ phải đủ 16 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bao gồm cả khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.
Trong trường hợp người nước ngoài hoặc người không có quốc tịch cấu kết với công dân Việt Nam để gây nguy hại đến quyền lợi cơ bản của dân tộc Việt Nam, họ sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phản bội Tổ quốc, và có thể được xem xét vai trò cụ thể như là người tổ chức, người giúp sức, hoặc người xúi giục trong quá trình phạm tội.
4. Hình phạt đối với Tội phản bội Tổ quốc
- Người phạm tội phản bội tổ quốc có thể đối mặt với mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, hoặc có thể bị tù chung thân hoặc tử hình.
- Trong trường hợp người phạm tội có những tình tiết giảm nhẹ như tự thú, khai báo thành khẩn, và tích cực hỗ trợ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện và điều tra tội phạm, họ có thể bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
- Đối với người chuẩn bị phạm tội này, hình phạt tù có thể từ 01 năm đến 05 năm.
5. Sự khác biệt so với quy định tại Bộ luật Hình sự 1999
So với Bộ luật Hình sự năm 1999, quy định về tội phản bội Tổ quốc trong Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được điều chỉnh và mở rộng khách thể của tội phạm. Thay vì chỉ hướng đến độc lập, chủ quyền, thống nhất, và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quy định của Điều 108 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã thay thế khái niệm “lực lượng quốc phòng” bằng “tiềm lực quốc phòng, an ninh”. Sự mở rộng này nhằm phù hợp với yêu cầu đặt ra trong việc phòng chống tội phản bội Tổ quốc trong bối cảnh mới. Điều này là do:
Bảo vệ Tổ quốc và quan hệ xã hội chủ nghĩa: Bảo vệ Tổ quốc không chỉ liên quan đến độc lập, chủ quyền, thống nhất, và toàn vẹn lãnh thổ, mà còn liên quan đến việc bảo vệ Đảng, Nhà nước, và Nhân dân, cũng như bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh hiện nay, cả Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đều có vai trò quan trọng trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Sự hiện đại hóa và ứng dụng công nghệ: Quốc phòng và an ninh hiện đại không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố vật chất như con người, vũ khí, và phương tiện, mà còn liên quan đến các yếu tố phi vật chất như khoa học, kỹ thuật, công nghệ. Việc thay thế “lực lượng quốc phòng” bằng “tiềm lực quốc phòng, an ninh” nhằm đáp ứng đầy đủ hơn các yếu tố này và nâng cao hiệu quả trong bảo vệ Tổ quốc.
Do đó, khách thể của tội phản bội Tổ quốc bao gồm ba nhóm quan hệ xã hội quan trọng: độc lập, chủ quyền, thống nhất, và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; chế độ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; cũng như tiềm lực quốc phòng, an ninh.
6. Phân biệt tội phản bội tổ quốc và tội gián điệp
6.1. Giống nhau
Cả tội phản bội tổ quốc và tội gián điệp đều mang độ nguy hiểm nghiêm trọng đối với xã hội, vì cả hai tội đều trực tiếp đe dọa sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, cũng như độc lập chủ quyền của Tổ quốc.
Cả hai tội đều xâm phạm đến quan hệ an ninh quốc gia, đặt ra mối đe dọa lớn đối với sự bảo vệ và ổn định của quốc gia.
Đều thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, với mức độ nguy hiểm đặc biệt lớn, được quy định trong Bộ luật Hình sự với khung hình phạt cao nhất là từ 12 đến 20 năm tù, tù chung thân, hoặc tử hình.
6.2. Khác nhau
Tội phản bội Tổ quốc | Tội gián điệp | |
Chủ thể | Chủ thể của tội phản bội tổ quốc là người có đặc điểm chủ thể đặc biệt, chỉ hữu danh nghĩa công dân Việt Nam, tức là những người mang quốc tịch Việt Nam. Ngược lại, những người không phải là công dân Việt Nam, bao gồm người nước ngoài và những người không có quốc tịch, không được xem là chủ thể của tội phạm này. Tuy nhiên, nếu người nước ngoài hoặc người không có quốc tịch liên kết với công dân Việt Nam để tạo ra sự nguy hại đối với các quyền cơ bản của dân tộc Việt Nam, họ sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phản bội tổ quốc với tư cách là đồng phạm. Điều này bao gồm những vai trò như người tổ chức, người hỗ trợ, và người xúi giục trong việc thực hiện hành vi phạm tội này. | Tội phạm này có thể được thực hiện bởi bất kỳ ai, bao gồm cả công dân Việt Nam, những người mang quốc tịch nước ngoài, và người không có quốc tịch. |
Mặt khách quan | Hành vi khách quan của tội phản bội tổ quốc có thể mô tả như sau: Người phạm tội thực hiện hành vi cấu kết với người nước ngoài. Việc liên kết này thường bao gồm đàm phán và lập kế hoạch cụ thể với người nước ngoài, nhằm chống lại Tổ quốc. Các hoạt động này thường thể hiện qua: Thảo luận với người nước ngoài về âm mưu, phương thức và kế hoạch hoạt động, cả trong tương lai và dài hạn, nhằm đặt ra mối đe dọa đối với độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Hưởng ứng sự hỗ trợ của nước ngoài về vũ khí, đạn dược, tài chính và các phương tiện kỹ thuật khác để sử dụng trong việc chống lại tổ quốc. Đặt dựa vào sức mạnh của người nước ngoài hoặc hỗ trợ họ trong việc chống lại Tổ quốc. Tội phản bội tổ quốc được coi là đã xảy ra khi người phạm tội thực hiện hành vi cấu kết với người nước ngoài nhằm tạo ra nguy cơ đối với độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
| Mặt khách quan của tội gián điệp được mô tả bằng một trong những hành vi sau đây: Hoạt động tình báo: Điều này bao gồm các hành vi điều tra và thu thập thông tin, tài liệu thuộc bí mật Nhà nước hoặc không thuộc bí mật Nhà nước để sử dụng trong việc chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Phá hoại: Đây là hành vi chống phá nhà nước, làm cho việc thực hiện các chính sách kinh tế và xã hội của Nhà nước bị cản trở, không hoàn thành được. Mục đích của những hành vi này là chống chính quyền nhân dân và phục vụ lợi ích của nước ngoài. Gây cơ sở cho hoạt động tình báo và phá hoại: Bao gồm hành vi dụ dỗ, rủ rê, tìm người để cung cấp nơi ẩn náu, có người giúp đỡ và nói chung, tạo thuận tiện cho hoạt động gián điệp dưới một, hai hoặc ba mặt: hoạt động tình báo, phá hoại và gây cơ sở. Hoạt động thám báo: Bao gồm các hành vi hoạt động ở vùng biên giới, kết hợp tính chất thu thập thông tin và tình hình quân sự với tính chất biệt kích vũ trang, xâm nhập vào nội địa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua các hình thức như phục kích, tập kích và bắt cóc người. Tội gián điệp được coi là có cấu thành từ thời điểm chủ thể nhận lời làm gián điệp hoặc từ thời điểm chủ thể xâm nhập biên giới, mặc dù chưa thực hiện bất kỳ hành vi nào. Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc cho việc xác định tội phạm này. |
Mặt chủ quan | Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp. Họ nhận thức rõ rằng việc câu kết với người nước ngoài để gây nguy hại cho độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc là một hành vi nguy hiểm đối với xã hội, tuy nhiên, vẫn có ý định thực hiện hành vi đó. Mục đích phạm tội của họ là thực hiện những hành động này nhằm chống lại chính quyền nhân dân, thay đổi chế độ chính trị, kinh tế và xã hội của đất nước. Mục đích chống lại chính quyền nhân dân được coi là một mục đích bắt buộc cần có để cấu thành tội phạm phản bội Tổ quốc. | Tội gián điệp được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ rằng hành vi của mình mang lại nguy hiểm cho xã hội, họ hiểu rõ trước hậu quả của hành động đó và mong muốn hậu quả đó xảy ra. Mục đích phạm tội của họ là nhằm chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
|