Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự?
Bài viết này đề cập đến điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và giao dịch dân sự có điều kiện theo quy định Bộ luật dân sự 2015 dùng vào mục đích tham khảo.
1. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự?
1.1. Điều kiện chung
Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập:
Theo quy định của Điều 86 Bộ luật Dân sự 2015, năng lực pháp luật dân sự của một pháp nhân được xác định như sau:
Năng lực pháp luật dân sự của một pháp nhân là khả năng của nó để có các quyền và nghĩa vụ dân sự, và không bị hạn chế trừ những trường hợp được quy định khác trong Bộ luật Dân sự 2015 hoặc các luật có liên quan.
Năng lực pháp luật dân sự của một pháp nhân bắt đầu từ thời điểm mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập pháp nhân; nếu pháp nhân cần phải đăng ký hoạt động, thì năng lực pháp luật dân sự của nó bắt đầu từ thời điểm được ghi vào sổ đăng ký.
Năng lực pháp luật dân sự của một pháp nhân kết thúc kể từ thời điểm mà pháp nhân đó chấm dứt.
Hiện nay, pháp luật vẫn chưa có quy định cụ thể về khái niệm “năng lực hành vi dân sự”, tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu năng lực hành vi dân sự của một chủ thể là khả năng của họ để xác lập hành vi, thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự cụ thể, và tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình, bao gồm cả hành vi pháp lý và hành vi vi phạm pháp luật.
Thuật ngữ “chủ thể” ở đây cần được hiểu theo một cách rộng lớn, bao gồm các chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp lý dân sự: cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình và tổ hợp tác.
Đối với cá nhân: Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí của chủ thể tham gia giao dịch. Chỉ những người có năng lực hành vi mới có ý chí riêng và nhận thức được hành vi của mình để có thể tự mình xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự đồng thời phải tự chịu trách nhiệm trong giao dịch đó. Do đó, giao dịch dân sự do cá nhân thực hiện chỉ có hiệu lực khi phù hợp với mức độ năng lực hành vi dân sự của họ được quy định từ Điều 16 đến Điều 21 của Bộ luật Dân sự 2015.
Những người từ đủ 18 tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp họ bị toà án tuyên bố mất năng lực hành vi hoặc tuyên bố hạn chế năng lực hành vi. Những người này có toàn quyền xác lập mọi giao dịch dân sự.
Những người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi có năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ, khi thực hiện giao dịch dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ những giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi của họ.
Những người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự, trừ các giao dịch liên quan đến bất động sản và động sản phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý. Ví dụ, việc lập di chúc phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
Những người chưa đủ 6 tuổi hoặc mất năng lực hành vi không được phép thực hiện giao dịch dân sự. Mọi giao dịch dân sự của họ phải được người đại diện theo pháp luật xác lập và thực hiện.
Đối với pháp nhân, hộ gia đình và tổ hợp tác: Các chủ thể này tham gia vào giao dịch dân sự thông qua người đại diện của họ (đại diện theo pháp luật hoặc theo uỷ quyền). Người đại diện xác lập và thực hiện giao dịch dân sự thay mặt cho chủ thể. Các quyền và nghĩa vụ được xác định bởi người đại diện phát sinh quyền và nghĩa vụ của pháp nhân, hộ gia đình và tổ hợp tác. Tuy nhiên, các chủ thể này chỉ tham gia vào các giao dịch dân sự phù hợp với chức năng và nhiệm vụ của họ. Người đại diện xác lập và thực hiện giao dịch dân sự làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của pháp nhân, hộ gia đình và tổ hợp tác trong phạm vi nhiệm vụ của chủ thể đó được quy định trong điều lệ hoặc pháp luật.
Ảnh minh hoạ
Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện: Tất cả các bên tham gia vào giao dịch dân sự phải hoàn toàn tự nguyện. Nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là tôn trọng sự đồng ý của các bên và tính tự nguyện, công bằng… của cá nhân, tổ chức trong quá trình thỏa thuận và thực hiện các giao dịch dân sự.
Bản chất của giao dịch dân sự là sự đồng thuận giữa ý chí và biểu hiện ý chí, vì vậy “tự nguyện” bao gồm các yếu tố cấu thành là tự do ý chí và biểu hiện ý chí. Nếu thiếu đi tự do ý chí và biểu hiện ý chí, không thể có sự tự nguyện; nếu một trong hai yếu tố này không có hoặc không thống nhất, cũng không thể có sự tự nguyện. Sự tự nguyện của một bên (hành vi pháp lý đơn phương) hoặc sự tự nguyện của các bên trong một mối quan hệ dân sự (hợp đồng) là một trong các nguyên tắc được quy định tại Điều 3 của Bộ luật Dân sự 2015: Tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận. Vi phạm sự tự nguyện của chủ thể là vi phạm pháp luật. Do đó, giao dịch dân sự thiếu sự tự nguyện không tạo ra hậu quả pháp lý. Bộ luật dân sự quy định một số trường hợp giao dịch dân sự được xác lập mà không có sự tự nguyện sẽ bị vô hiệu. Đó là các trường hợp vô hiệu do giả mạo; do nhầm lẫn; do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép; do xác lập trong khi không nhận thức và kiểm soát được hành vi của mình.
Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội:
Không vi phạm quy định của luật. Điều này có nghĩa là giao dịch phải tuân thủ những điều mà luật không cấm, không cho phép chủ thể thực hiện. Ví dụ: Luật pháp Việt Nam cấm cá nhân, tổ chức buôn lậu. Do đó, các bên không thể thỏa thuận ký kết hợp đồng mua bán tài sản để sử dụng trong hoạt động buôn lậu…
Không vi phạm đạo đức xã hội. Các nguyên tắc và tiêu chuẩn đạo đức xã hội thường được áp dụng trong cộng đồng hoặc xã hội. Do đó, các thoả thuận trong giao dịch dân sự không được phép vi phạm. Ngoài ra, còn có một số hành vi vi phạm đạo đức xã hội như kỳ thị, gian lận, phân biệt đối xử… Đặc biệt, những hành vi này có thể đồng thời là vi phạm pháp luật.
1.2. Điều kiện về hình thức
Điều 117 của Bộ luật Dân sự nêu rõ rằng, ngoài các điều kiện đã được đề cập, nếu luật có quy định rằng hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực, thì các bên phải tuân thủ quy định đó. Ví dụ, khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quy định về hình thức bắt buộc phải có sự công chứng, chứng thực mới phát sinh hiệu lực về mặt pháp luật.
Hình thức của giao dịch dân sự là cách thức thể hiện nội dung của giao dịch. Qua hình thức này, cả bên tham gia và bên thứ ba có thể biết được nội dung của giao dịch dân sự đã được thực hiện. Hình thức của giao dịch dân sự mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tố tụng dân sự, là chứng cứ xác nhận các quan hệ đã, đang tồn tại giữa các bên và xác định trách nhiệm dân sự khi có hành vi vi phạm xảy ra.
Giao dịch dân sự có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Người xác lập giao dịch dân sự có quyền lựa chọn hình thức. Chỉ trong một số trường hợp đặc biệt, pháp luật mới yêu cầu về hình thức (phải lập thành văn bản, phải có chứng nhận, chứng thực, đăng ký, xin phép). Trong trường hợp pháp luật yêu cầu giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản, công chứng, chứng thực, đăng ký hoặc phải xin phép, các bên phải tuân theo (Điều 119 BLDS).
Hình thức miệng (lời nói): Là hình thức phổ biến nhất mặc dù xác thực thấp nhất. Thường áp dụng trong các giao dịch ngay lập tức hoặc giữa các bên có mối quan hệ đặc biệt.
Hình thức văn bản:
Văn bản thường: Áp dụng khi các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định cần văn bản. Có chữ ký xác nhận của các bên, là chứng cứ rõ ràng hơn so với lời nói.
Văn bản có công chứng, chứng nhận: Áp dụng khi pháp luật yêu cầu hoặc các bên thoả thuận, bao gồm các thủ tục pháp lý như chứng nhận, chứng thực, đăng ký.
Hình thức giao dịch bằng hành vi: Có thể thông qua hành vi nhất định được định trước, không cần sự hiện diện đồng thời của tất cả các bên. Phổ biến hơn ở các quốc gia có công nghiệp tự động hoá phát triển.
2. Mục đích của giao dịch dân sự là gì?
Theo quy định của Điều 118 trong Bộ luật Dân sự 2015, nội dung này được miêu tả như sau: Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích mà chủ thể mong muốn đạt được khi thực hiện giao dịch đó.
3. Giao dịch dân sự có điều kiện là gì?
Theo quy định tại Điều 120 của Bộ luật Dân sự năm 2015, điều này được chỉ rõ như sau:
Nếu các bên đã thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự, khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự sẽ phát sinh hoặc bị hủy bỏ.
Trong trường hợp điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự không thể xảy ra do hành vi cố ý cản trở trực tiếp hoặc gián tiếp của một bên, điều kiện đó sẽ được xem là đã xảy ra; và nếu có sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp từ một bên cố ý thúc đẩy điều kiện đó xảy ra, thì điều kiện đó sẽ không được coi là đã xảy ra.
TUYET NHUNG LAW cung cấp đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp và giàu kinh nghiệm xử lý các vụ án trên thực tế về vấn đề Dân sự như Hợp đồng; thừa kế; bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự nhân phẩm hoặc các vấn đề liên quan đến bồi thường ngoài hợp đồng…. Liên hệ tư vấn; đại diện uỷ quyền hoặc mời luật sư tham giao bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong các vụ án về Dân sự, vui lòng liên hệ số điện thoại hotline: 0975.982.169 hoặc gửi yêu cầu qua email: lienhe@tuyetnhunglaw.vn để được hỗ trợ kịp thời.