Bài viết này đề cập đến nội dung liên quan đến giao dịch dân sự và các trường hợp giao dịch dân sự bị vô hiệu theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 dùng vào mục đích tham khảo.
1. Giao dịch dân sự là gì?
Theo Điều 116 của Bộ luật Dân sự năm 2015, giao dịch dân sự được định nghĩa như sau: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.” Do đó, dựa trên quy định này, ta biết rằng giao dịch dân sự có thể là hợp đồng hoặc có thể là hành vi pháp lý đơn phương.
Từ đó, theo có thể hiểu, mọi hợp đồng được ký kết đều được coi là giao dịch dân sự, tuy nhiên không phải mọi giao dịch đều là hợp đồng. Bởi vì, trong khi giao dịch của hai bên có thể được coi là hợp đồng, hành vi pháp lý đơn phương thực chất là việc thể hiện ý chí của một chủ thể, do đó nó không được coi là hợp đồng. Ví dụ: việc một cá nhân lập di chúc để phân phối di sản, đây là một hành vi pháp lý đơn phương, thể hiện ý chí của cá nhân, do đó nó vẫn được coi là một giao dịch dân sự nhưng không phải là hợp đồng.
Một khía cạnh khác là: Không phải mọi hành vi pháp lý đơn phương đều là giao dịch dân sự. Một hành vi pháp lý đơn phương chỉ được coi là giao dịch dân sự khi nó được thực hiện để tạo ra hoặc thay đổi quyền và nghĩa vụ dân sự của chủ thể được xác định. Nếu một hành vi pháp lý đơn phương được thực hiện nhưng không tạo ra hoặc thay đổi bất kỳ quyền và nghĩa vụ nào của chủ thể được xác định, thì hành vi đó không phải là một giao dịch dân sự. Ví dụ: việc từ bỏ quyền sở hữu đối với một tài sản.
2. Giao dịch dân sự vô hiệu khi nào?
Các trường hợp giao dịch bị vô hiệu có thể được phân thành hai nhóm chính: Vô hiệu tuyệt đối (hay còn gọi là vô hiệu đương nhiên) và vô hiệu tương đối (hay còn gọi là vô hiệu bị tuyên). Sự phân loại trên dựa vào một số đặc điểm thể hiện bản chất của hai khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương đối. Đó là:
– Sự khác biệt về trình tự vô hiệu của giao dịch. Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối thì mặc nhiên bị coi là vô hiệu. Còn đối với các giao dịch vô hiệu tương đối thì không mặc nhiên vô hiệu mà chỉ trở nên vô hiệu khi có đơn yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan và bị toà án tuyên bố vô hiệu.
– Sự khác biệt về thời hạn yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu. Đối với các giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối thì thời hạn yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu không bị hạn chế. Còn đối với các giao dịch dân sự vô hiệu tương đối thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là hai năm kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập (Điều 132 BLDS 2015). Có một điểm cần lưu ý là trường hợp vô hiệu do vi phạm các quy định bắt buộc về hình thức cũng thuộc nhóm vô hiệu tuyệt đối nhưng theo quy định của Điều 132 BLDS 2015 thì thời hạn yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu là hai năm kể từ ngày giao dịch được xác lập (giống như các trường hợp vô hiệu tương đối, bởi vì, hiệu lực của giao dịch phụ thuộc vào ý chí của chủ thể mà không phải là của Nhà nước).
– Giao dịch dân sự thuộc trường hợp vô hiệu tuyệt đối có thể bị vô hiệu không phụ thuộc vào quyết định của toà án mà đương nhiên không có giá trị, vì giao dịch vi phạm pháp luật nghiêm trọng cho nên Nhà nước không bảo hộ. Còn đối với giao dịch dân sự vô hiệu tương đối thì quyết định của toà án là cơ sở làm cho giao dịch trở nên vô hiệu. Quyết định của toà án mang tính chất phán xử. Toà án tiến hành giải quyết vụ việc khi có đơn yêu cầu của các bên (hoặc của đại diện hợp pháp của họ). Bên yêu cầu phải có nghĩa vụ chứng minh trước toà các cơ sở của yêu cầu. Dựa trên những minh chứng đó toà án mới cân nhắc để ra quyết định giao dịch có bị coi là vô hiệu hay không.
– Sự khác biệt về mục đích. Các trường hợp pháp luật quy định giao dịch vô hiệu tuyệt đối nhằm mục đích bảo vệ các lợi ích công (lợi ích của Nhà nước, của xã hội nói chung). Còn các trường hợp pháp luật quy định vô hiệu tương đối là nhằm mục đích bảo vệ lợi ích cho chính các chủ thể tham gia giao dịch.
Ảnh minh hoạ
2.1. Giao dịch vô hiệu tuyệt đối
– Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội (Điều 123 Bộ luật dân sự 2015): Là khi giao dịch có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội, nó sẽ bị coi là không hợp lệ. Điều cấm của luật là những quy định không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. BLDS 2015 đã hạn chế phạm vi điều cấm “của luật” so với BLDS 2005 điều cấm “của pháp luật”. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Giao dịch vi phạm quy định này tự nhiên sẽ bị xem là vô hiệu không phụ thuộc vào ý chí của các bên tham gia giao dịch. Tài sản giao dịch và lợi tức thu được có thể bị tịch thu, đóng vào quỹ nhà nước.
– Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức (Điều 129 BLDS 2015): Là khi các bên không tuân thủ những quy định pháp luật về hình thức giao dịch. Theo nguyên tắc chung, các chủ thể được tự do lựa chọn hình thức của giao dịch. Tuy nhiên, chỉ những giao dịch mà pháp luật quy định bắt buộc phải được thể hiện bằng văn bản, phải có chứng thực, chứng nhận, đăng ký hoặc xin phép mà các bên không tuân thủ quy định này mới bị vô hiệu.
Tuy nhiên, có hai trường hợp cụ thể:
Trường hợp giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản, nhưng văn bản không tuân thủ đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch, thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án sẽ ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.
Trường hợp giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch, thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án sẽ ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.
2.2. Giao dịch vô hiệu tương đối
Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự được thực hiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của họ;
Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc miễn trừ nghĩa vụ cho những người nêu trên với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ;
Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã trưởng thành hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.
Sự nhầm lẫn là khi các bên hiểu sai về nội dung của giao dịch mà làm tổn thất cho một bên hoặc cả hai. Nó phát sinh từ nhận thức hoặc suy luận sai lầm về vấn đề, và phải được thể hiện rõ ràng và căn cứ vào nội dung của giao dịch. Nếu bên bị nhầm lẫn có thể chứng minh sự nhầm lẫn của mình, thì giao dịch có thể bị tuyên bố là vô hiệu.
– Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép (Điều 127 BLDS 2015): Là khi một bên tham gia giao dịch dân sự bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép và có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó là vô hiệu.
Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự đã xác lập. Ví dụ như che giấu hành vi bất hợp pháp để nhận thừa kế theo di chúc; sử dụng chiêu trò để bán vật phẩm với giá cao…
Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân yêu của mình.
Những giao dịch được xác lập do lừa dối, đe dọa, cưỡng ép chỉ bị vô hiệu khi có yêu cầu của bên bị lừa dối, bị đe dọa, cưỡng ép và toà án chấp nhận yêu cầu đó. Như vậy, những giao dịch được thực hiện dưới những tác động này vẫn có hiệu lực nếu không có yêu cầu từ bên bị lừa dối, bị đe dọa, cưỡng ép.
TUYET NHUNG LAW cung cấp đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp và giàu kinh nghiệm xử lý các vụ án trên thực tế trong lĩnh vực dân sự. Liên hệ tư vấn, mời luật sư tham giao bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong các vụ án liên quan đến vấn đề dân sự tại Toà án. Vui lòng liên hệ số điện thoại hotline: 0975.982.169 hoặc gửi yêu cầu qua email: lienhe@tuyetnhunglaw.vn để được hỗ trợ.