Bảo lãnh là hành động của một bên thứ ba, được gọi là bên bảo lãnh, cam kết với bên nhận bảo lãnh rằng họ sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình đến thời hạn quy định. Trong ngữ cảnh pháp lý, bảo lãnh đóng vai trò là một cam kết pháp lý giữa hai bên, giúp đảm bảo sự thực thi của nghĩa vụ và tạo ra một môi trường pháp lý ổn định và minh bạch trong các giao dịch và hợp đồng.
Trải qua các thời kỳ lịch sử, từ thời nhà Nguyễn cho đến thời kỳ hiện đại, biện pháp bảo lãnh trong pháp luật Việt Nam đã trải qua nhiều sự biến đổi và điều chỉnh. Từ khi chỉ có những quy định cơ bản về người bảo lãnh trong Bộ luật Gia Long, đến khi được ứng dụng và phát triển dựa trên nền tảng của Bộ luật Napoleon của Pháp trong các bộ luật dân sự của Bắc Kỳ và Trung Kỳ, biện pháp bảo lãnh đã dần trở nên phổ biến và quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện đại, sự xuất hiện của Pháp lệnh hợp đồng dân sự vào năm 1991 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng về biện pháp bảo lãnh. Bộ luật Dân sự năm 1995 tiếp tục phát triển và thừa kế tinh thần của biện pháp này, xác định rằng bảo lãnh phải dựa trên thỏa thuận của các bên và có tính chất liên đới giữa những người đồng bảo lãnh. Tuy nhiên, sự phát triển này không dừng lại ở đó.
Qua các phiên bản cập nhật của Bộ luật Dân sự, từ năm 2005 đến năm 2015, biện pháp bảo lãnh tiếp tục được điều chỉnh và hoàn thiện. Điều này phản ánh qua việc tách tín chấp thành một biện pháp bảo đảm riêng biệt, làm cho bảo lãnh chỉ mang tính đối nhân và đối tượng của nó chỉ có thể là công việc phải thực hiện. Điều này cho thấy sự tập trung vào tính chất công bằng và trách nhiệm của cả hai bên trong quá trình bảo lãnh.
Tuy nhiên, sự chặt chẽ hơn trong quy định cũng đi kèm với những trách nhiệm rõ ràng hơn đối với bên bảo lãnh. Nếu không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, bên bảo lãnh sẽ phải chịu trách nhiệm thanh toán cho bên nhận bảo lãnh bằng tài sản sở hữu của mình. Điều này làm cho biện pháp bảo lãnh không chỉ là một nghĩa vụ đối nhân mà còn là một cam kết pháp lý đòi hỏi sự trung thực và trách nhiệm từ cả hai bên.
Từ quá trình tiến triển và điều chỉnh của biện pháp bảo lãnh trong pháp luật dân sự Việt Nam, ta có thể thấy sự nỗ lực của hệ thống pháp luật trong việc tạo ra một môi trường công bằng và đáng tin cậy cho các bên tham gia vào các giao dịch pháp lý và hợp đồng.
2. Đối tượng của bảo lãnh
Bảo lãnh không chỉ là sự cam kết pháp lý giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh mà còn liên quan chặt chẽ đến khả năng và trách nhiệm của người bảo lãnh. Để thực hiện cam kết này, người bảo lãnh cần có tài sản hoặc công việc phù hợp để đáp lại lợi ích cho bên nhận bảo lãnh trong trường hợp người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ của mình.
Lợi ích mà các bên trong một mối quan hệ nghĩa vụ đề cập đến chủ yếu là lợi ích vật chất. Do đó, người bảo lãnh phải có khả năng cung cấp một khoản tài sản hoặc thực hiện một công việc thay cho người được bảo lãnh để bảo đảm lợi ích cho bên nhận bảo lãnh. Điều này đòi hỏi người bảo lãnh phải có khả năng và tài sản để đảm bảo thực hiện cam kết của mình.
Người bảo lãnh thường phải chuyển nhượng một phần tài sản thuộc sở hữu của mình cho bên nhận bảo lãnh để giải quyết tình hình khi người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ của mình. Điều này là cách thức phổ biến để đảm bảo rằng các cam kết pháp lý được thực hiện và lợi ích của bên nhận bảo lãnh được bảo đảm.
3. Phạm vi của bảo lãnh
Nghĩa vụ có thể được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp không có thỏa thuận cụ thể và pháp luật không quy định rõ phạm vi bảo đảm, thì nghĩa vụ được coi là được bảo đảm toàn bộ. Điều này áp dụng cho cả nghĩa vụ trả lãi, tiền phạt và bồi thường thiệt hại.
Nghĩa vụ được bảo đảm có thể bao gồm nghĩa vụ hiện tại, nghĩa vụ trong tương lai hoặc nghĩa vụ có điều kiện. Trong trường hợp bảo đảm nghĩa vụ trong tương lai, nghĩa vụ được hình thành trong thời hạn bảo đảm là nghĩa vụ được coi là được bảo đảm, trừ khi có thỏa thuận khác. Điều này có nghĩa là trong thời gian mà bảo đảm vẫn còn hiệu lực, nếu nghĩa vụ được hình thành, nó sẽ được coi là nghĩa vụ được bảo đảm theo quy định.
4. Thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo luật định
Theo Khoản 1 Điều 335 của Bộ luật Dân sự, bên bảo lãnh cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ trong trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đến thời hạn quy định. Tuy nhiên, các bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.
Do đó, thời điểm bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ được xác định theo hai trường hợp sau:
Khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng bảo lãnh đến thời hạn thực hiện. Trong trường hợp không có thỏa thuận khác, việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo lãnh bắt đầu từ thời điểm này. Do đó, bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ kể từ thời điểm bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đến hạn.
Khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình. Thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh được xác định từ thời điểm có đủ căn cứ để xác định rằng bên được bảo lãnh không còn khả năng thực hiện nghĩa vụ.
Theo quy định của pháp luật, bên bảo lãnh phải sử dụng tài sản của mình hoặc tự mình thực hiện một công việc để chịu trách nhiệm thay cho người được bảo lãnh trong trường hợp người này không thực hiện nghĩa vụ hoặc gây ra thiệt hại cho bên nhận bảo lãnh. Khi bên bảo lãnh hoàn thành các cam kết của mình đối với bên nhận bảo lãnh, thì quan hệ nghĩa vụ cũng như việc bảo lãnh được coi là chấm dứt.
Bảo lãnh có thể chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
Nghĩa vụ được bảo lãnh đã kết thúc hoặc chấm dứt.
Việc bảo lãnh đã được hủy bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác.
Bên bảo lãnh đã hoàn thành nghĩa vụ bảo lãnh.
Theo thỏa thuận của các bên.
Trong trường hợp bảo lãnh chấm dứt, bên bảo lãnh có quyền yêu cầu người được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi đã bảo lãnh. Ngoài ra, bên bảo lãnh cũng có thể được hưởng thù lao nếu có thỏa thuận giữa họ và người được bảo lãnh hoặc theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh nhưng bên nhận bảo lãnh được miễn việc thực hiện nghĩa vụ đối với bên bảo lãnh, thì bên được bảo lãnh không cần phải thực hiện nghĩa vụ của mình đối với bên nhận bảo lãnh, trừ khi có thỏa thuận hoặc quy định khác của pháp luật.
Trong trường hợp chỉ một trong số nhiều người cùng bảo lãnh liên đới được miễn việc thực hiện phần nghĩa vụ bảo lãnh của mình, thì những người khác vẫn phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của họ.
Nếu một trong số những người nhận bảo lãnh liên đới được miễn cho bên bảo lãnh không phải thực hiện phần nghĩa vụ đối với mình, thì bên bảo lãnh vẫn phải thực hiện phần nghĩa vụ còn lại đối với những người nhận bảo lãnh liên đới còn lại.
TUYET NHUNG LAW cung cấp đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp và giàu kinh nghiệm xử lý các vụ án trên thực tế. Liên hệ tư vấn hoặc mời luật sư tham giao bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp vui lòng liên hệ số điện thoại: 0975.982.169 hoặc gửi yêu cầu qua email: lienhe@tuyetnhunglaw.vnđể được hỗ trợ. Trân trọng cảm ơn quý khách hàng.