Hiểu thế nào về ký quỹ trong dân sự?

Bài viết này đề cập đến các nội dung liên quan đến ký quỹ, đặc điểm của ký quỹ, và hiệu lực của Hợp đồng ký quỹ theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 dùng vào mục đích tham khảo.

1. Hiểu thế nào về ký quỹ trong dân sự?

Ký quỹ là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong các giao dịch dân sự, được quy định trong Điều 330 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo đó, khi một bên có nghĩa vụ cần bảo đảm, họ có thể chọn phương thức ký quỹ bằng cách gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá vào tài khoản phong toả tại một tổ chức tín dụng.
Mục đích chính của việc ký quỹ là đảm bảo rằng bên có nghĩa vụ sẽ thực hiện cam kết của mình trong giao dịch. Khi ký quỹ được thiết lập, người ký quỹ sẽ chịu trách nhiệm đối với việc giữ gìn và bảo quản tài sản trong tài khoản phong toả đó, và tài sản này có thể được sử dụng để thanh toán trong trường hợp bên không thực hiện nghĩa vụ của mình.
Tuy nhiên, trong thực tế, các biện pháp bảo đảm khác như thế chấp, đặt cọc thường được sử dụng phổ biến hơn trong các giao dịch dân sự. Việc sử dụng các hình thức bảo đảm khác nhau có thể phụ thuộc vào nhiều yếu tố như loại hợp đồng, điều kiện thị trường, và sự đồng ý của các bên liên quan.
Dù ký quỹ không phổ biến nhưng vẫn là một phương thức bảo đảm hợp pháp và có thể được sử dụng trong các trường hợp cụ thể khi các bên muốn có một biện pháp bảo đảm tài chính mạnh mẽ và tin cậy.

2. Đặc điểm ký quỹ là gì?

Đầu tiên, một biện pháp đảm bảo có tính chất đối vật. Theo đó, quyền của bên nhận ký quỹ liên quan đến tài sản ký quỹ đang được một tổ chức tín dụng giữ. Trong trường hợp bên phải thực hiện nghĩa vụ nhưng không thực hiện, hoặc thực hiện không đúng, tổ chức tín dụng sẽ sử dụng tài sản ký quỹ để thanh toán và bồi thường thiệt hại cho bên nhận. Việc thanh toán và bồi thường thiệt hại của tổ chức tín dụng cho bên nhận chỉ hạn chế trong phạm vi tài sản ký quỹ đã được phong tỏa, sau khi trừ các chi phí dịch vụ.

Tài sản ký quỹ giới hạn bao gồm tiền mặt, kim loại quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá trị. Tài sản ký quỹ được chuyển giao cho tổ chức tín dụng giữ nhằm đảm bảo việc thực hiện các nghĩa vụ, chủ yếu là thanh toán và bồi thường thiệt hại. Chính điều này là lý do tài sản ký quỹ thường là tiền mặt trong thực tế. Trước khi có cơ sở để thanh toán hoặc bồi thường cho bên nhận, tài sản ký quỹ vẫn thuộc sở hữu của bên ký quỹ và họ là chủ sở hữu của tài khoản mở tại tổ chức tín dụng. Trừ khi có sự thỏa thuận khác, tổ chức tín dụng và bên có nghĩa vụ không được sử dụng tài sản ký quỹ trong thời gian bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.

Cần phân biệt rõ ràng giữa biện pháp đảm bảo ký quỹ và biện pháp bảo lãnh của tổ chức tín dụng. Mặc dù cả hai đều có tổ chức tín dụng tham gia và thanh toán cho bên nhận trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, nhưng bảo lãnh ngân hàng về cơ bản là một biện pháp đảm bảo đối với bên nhận. Tổ chức tín dụng cam kết với bên nhận bảo lãnh rằng họ sẽ thực hiện các nghĩa vụ tài chính thay cho bên có nghĩa vụ khi bên này không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết; bên có nghĩa vụ sau đó phải trả nợ và bồi thường cho tổ chức tín dụng theo thỏa thuận. Trong trường hợp này, tổ chức tín dụng sẽ sử dụng tài sản của mình để thực hiện các nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ. Trái lại, trong trường hợp của ký quỹ, tài sản bảo đảm vẫn thuộc sở hữu của bên có nghĩa vụ và ngân hàng chỉ đóng vai trò là bên trung gian giữ tài sản ký quỹ và thực hiện các thanh toán, bồi thường thiệt hại cho bên nhận theo thỏa thuận.

Thứ hai, có sự tham gia của tổ chức tín dụng. Trong biện pháp ký quỹ, vai trò của bên thứ ba là bên trung gian giúp đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ của các bên được đảm bảo hơn. Điều này cũng là đặc điểm quan trọng của biện pháp bảo đảm ký quỹ so với các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ khác.

Trong trường hợp thứ ba, đó là một dạng đặc biệt của cầm cố tài sản. Theo bản chất, biện pháp ký quỹ có nhiều điểm tương đồng với cầm cố tài sản. Cầm cố tài sản là hành động một bên (gọi là bên cầm cố) chuyển giao tài sản của mình cho bên khác (gọi là bên nhận cầm cố) để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ (theo Điều 309 Bộ luật Dân sự năm 2015). Tuy nhiên, khác biệt ở chỗ, thay vì bên cầm cố chuyển giao tài sản cho bên nhận cầm cố nắm giữ, trong trường hợp này các bên thỏa thuận một bên thứ ba trung gian đứng ra nắm giữ tài sản để tăng cường sự an toàn cho giao dịch. Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ, bên có quyền có thể yêu cầu bên đang nắm giữ tài sản bảo đảm chuyển giao cho mình để xử lý theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Ký quỹ cũng tương tự, bên có nghĩa vụ sẽ gửi tài sản bảo đảm vào tài khoản tại tổ chức tín dụng được phong tỏa để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ. Vì vậy, có thể kết luận rằng, ký quỹ là một dạng đặc biệt của cầm cố tài sản, trong đó các bên thỏa thuận giao tài sản bảo đảm cho bên thứ ba nắm giữ là tổ chức tín dụng.

Thứ ba, đó là một dạng đặc biệt của cầm cố tài sản. Theo bản chất, biện pháp ký quỹ có nhiều điểm tương đồng với cầm cố tài sản. Cầm cố tài sản là hành động một bên (gọi là bên cầm cố) chuyển giao tài sản của mình cho bên khác (gọi là bên nhận cầm cố) để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ (theo Điều 309 Bộ luật Dân sự năm 2015). Tuy nhiên, khác biệt ở chỗ, thay vì bên cầm cố chuyển giao tài sản cho bên nhận cầm cố nắm giữ, trong trường hợp này các bên thỏa thuận một bên thứ ba trung gian đứng ra nắm giữ tài sản để tăng cường sự an toàn cho giao dịch. Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ, bên có quyền có thể yêu cầu bên đang nắm giữ tài sản bảo đảm chuyển giao cho mình để xử lý theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Ký quỹ cũng tương tự, bên có nghĩa vụ sẽ gửi tài sản bảo đảm vào tài khoản tại tổ chức tín dụng được phong tỏa để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ. Vì vậy, có thể kết luận rằng, ký quỹ là một dạng đặc biệt của cầm cố tài sản, trong đó các bên thỏa thuận giao tài sản bảo đảm cho bên thứ ba nắm giữ là tổ chức tín dụng.

Ảnh minh hoạ

3. Hiệu lực của Hợp đồng ký quỹ?

3.1. Thời điểm có hiệu lực?

Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng như các quy định trước đó không có điều khoản riêng về thời điểm hợp đồng ký quỹ có hiệu lực. Nghị định số: 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ, thi hành Bộ Luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, đã quy định về hiệu lực của hợp đồng bảo đảm như sau: Hợp đồng bảo đảm được công chứng, chứng thực sẽ có hiệu lực từ thời điểm được công chứng, chứng thực. Nếu không được công chứng, chứng thực, hợp đồng sẽ có hiệu lực từ thời điểm các bên thỏa thuận. Trong trường hợp không có thỏa thuận, hợp đồng có hiệu lực từ thời điểm được ký kết.

Do đó, theo quy định này, hợp đồng ký quỹ sẽ có hiệu lực từ thời điểm các bên thỏa thuận, hoặc nếu không có thỏa thuận, từ thời điểm hợp đồng được ký kết. Tuy nhiên, quy định chung về hiệu lực của hợp đồng bảo đảm có vẻ không phản ánh đúng bản chất của biện pháp bảo đảm ký quỹ. Ký quỹ là một quan hệ mà bên có nghĩa vụ phải gửi một khoản tiền hoặc tài sản có giá trị vào tài khoản phong tỏa tại một tổ chức tín dụng để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ. Trong trường hợp này, quyền của bên có quyền sẽ liên quan đến số tài sản mà bên ký quỹ gửi vào tài khoản và được phong tỏa tại tổ chức tín dụng. Tổ chức tín dụng cũng không phải là bên bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ, điều này cũng là điểm khác biệt so với bảo lãnh của tổ chức tín dụng.

Dựa trên lý giải trên, mặc dù luật không quy định cụ thể, nhưng có lý do để cho rằng hợp đồng ký quỹ chỉ có hiệu lực từ thời điểm tài sản bảo đảm được gửi vào tài khoản phong tỏa tại tổ chức tín dụng, kèm theo hướng dẫn cụ thể về việc thanh toán số tài sản ký quỹ cho bên có quyền để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ.

3.2. Hiệu lực đối kháng?

Tương tự như hợp đồng, hiệu lực đối kháng của biện pháp ký quỹ đối với người thứ ba cũng không được Bộ Luật Dân sự làm rõ. Theo nguyên tắc chung tại Điều 297 BLDS năm 2015, biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba từ khi đăng ký biện pháp bảo đảm hoặc bên nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, trong trường hợp này, tài sản bảo đảm được gửi tại tổ chức tín dụng đóng vai trò là bên trung gian trong việc nắm giữ tài sản bảo đảm. Việc xác định thời điểm phát sinh hiệu lực đối kháng nếu áp dụng theo Điều 297 sẽ gặp nhiều khó khăn.

Trước đây, trong Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, dù không rõ về hiệu lực đối kháng với người thứ ba, nhưng đã nói về thứ tự ưu tiên thanh toán đối với các biện pháp bảo đảm khác. Theo đó, trong trường hợp hợp đồng cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cược, ký quỹ đã được đăng ký theo quy định của pháp luật thì bên nhận được ưu tiên thanh toán trước bên nhận bảo lãnh. Do đó, có thể hiểu rằng biện pháp ký quỹ cần phải được đăng ký để phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba.

Hiện nay, trong Nghị định số: 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 có quy định về hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp ký quỹ dường như có cách tiếp cận hợp lý hơn. Theo đó, hiệu lực đối kháng của biện pháp ký quỹ với người thứ ba phát sinh từ thời điểm tài sản ký quỹ được gửi vào tài khoản phong tỏa tại tổ chức tín dụng nơi ký quỹ. Quy định này là hợp lý, vì tại thời điểm tài sản ký quỹ được gửi vào tài khoản phong tỏa tại tổ chức tín dụng nơi ký quỹ, bên nhận bảo đảm đã có khả năng quản lý, kiểm soát tài sản bảo đảm.


TUYET NHUNG LAW cung cấp đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp và giàu kinh nghiệm xử lý các vụ án trên thực tế về vấn đề Dân sự như Hợp đồng; thừa kế; bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự nhân phẩm hoặc các vấn đề liên quan đến bồi thường ngoài hợp đồng…. Liên hệ tư vấn; đại diện uỷ quyền hoặc mời luật sư tham giao bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong các vụ án về Dân sự, vui lòng liên hệ số điện thoại hotline: 0975.982.169 hoặc gửi yêu cầu qua email: lienhe@tuyetnhunglaw.vn để được hỗ trợ kịp thời.

Luật sư Bùi Thị Nhung: