1. Hợp đồng mua bán hàng hoá là gì?
Tự do hợp đồng là một nguyên lý mà theo đó các cá nhân được quyền tự do thỏa thuận với nhau về các điều kiện của hợp đồng mà không có sự can thiệp của chính phủ. Do đó, hợp đồng được xem như kết quả của ý chí được hình thành từ lợi ích của các bên tham gia. Hợp đồng là công cụ pháp lý chủ yếu để ghi nhận việc thiết lập các quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự trong nền kinh tế thị trường.
Việc ra đời của Luật Thương mại năm 2005 đã mở ra một khái niệm mới trong thực tiễn kinh doanh – khái niệm “hợp đồng thương mại”. Mặc dù trong lĩnh vực pháp lý có ý kiến không nên sử dụng khái niệm này vì lo ngại về sự nhầm lẫn giữa hợp đồng thương mại và hợp đồng dân sự, nhưng trong thực tế kinh doanh hiện nay, khái niệm này vẫn được sử dụng phổ biến để chỉ “hợp đồng trong hoạt động thương mại”. Điều này cho thấy khái niệm “hợp đồng thương mại” vẫn đang tồn tại trong cuộc sống kinh tế và pháp lý với ý nghĩa là hợp đồng được hình thành trong lĩnh vực thương mại.
Hợp đồng mua bán hàng hóa là một trong những loại hợp đồng thương mại. Lý thuyết cho rằng, hợp đồng thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự và hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại cũng là một dạng hợp đồng mua bán tài sản. Tuy nhiên, hợp đồng thương mại và hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại có những đặc điểm riêng biệt so với hợp đồng dân sự và hợp đồng mua bán tài sản. Mặc dù văn bản pháp luật hiện hành ở Việt Nam không định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa, nhưng dựa trên các khái niệm chung về hợp đồng dân sự, hợp đồng mua bán tài sản và khái niệm mua bán hàng hóa quy định trong Luật Thương mại năm 2005, có thể đưa ra khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại.
2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán?
Hợp đồng mua bán hàng hóa có bản chất giống như hợp đồng mua bán tài sản, đều là sự thỏa thuận giữa các chủ thể nhằm xác lập quyền, nghĩa vụ pháp lý giữa các bên. Cụ thể, bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản/hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán và có quyền sở hữu đối với tài sản/hàng hóa đã mua.
Hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại được nhận diện qua những đặc điểm sau:
Thứ nhất, chủ thể chính của hợp đồng mua bán hàng hóa là thương nhân. Chủ thể hợp đồng là các bên giao kết và thực hiện hợp đồng. Một trong hai bên chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa phải là thương nhân. Chủ thể còn lại có thể là thương nhân hoặc không nhất thiết phải là thương nhân.
Sự khác biệt về chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại so với hợp đồng mua bán tài sản trong dân sự là do, thương nhân là chủ thể thực hiện hoạt động thương mại và để thực hiện hoạt động này cần phải đáp ứng các yêu cầu về vốn, tư cách pháp lý và điều kiện nghề nghiệp. Ảnh hưởng của hoạt động thương mại đối với nền kinh tế – xã hội cũng khác biệt so với các giao dịch dân sự. Do đó, sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động thương mại cũng có sự khác biệt. Một trong những yêu cầu của việc quản lý này là đăng ký kinh doanh để hình thành tư cách thương nhân. Điều này thể hiện sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động thương mại.
Xuất phát từ yêu cầu về chủ thể của hoạt động thương mại, các bên chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa phải là thương nhân hoặc trong một số trường hợp chỉ cần bên bán là thương nhân. Trong quan hệ mua bán hàng hóa, bên bán phải là thương nhân để thực hiện việc bán hàng như một nghề nghiệp và thu nhập từ việc này. Bên mua có thể là thương nhân hoặc không phải là thương nhân có nhu cầu mua hàng hóa để bán lại hoặc để sử dụng cho công việc, cuộc sống cá nhân. Hiện nay, trong thực tiễn kinh doanh đã có những chủ thể kinh doanh độc lập thường xuyên nhưng không cần đăng ký kinh doanh. Theo quan điểm của pháp luật Việt Nam, những chủ thể này không được coi là thương nhân. Tuy nhiên, những cá nhân có hoạt động thương mại thường xuyên không cần phải đăng ký kinh doanh vẫn có thể ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại.
Ảnh minh hoạ
Thứ hai, đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa. Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005, hàng hóa bao gồm:
Tất cả các loại động sản, bao gồm cả động sản hình thành trong tương lai; Những vật gắn liền với đất đai.
Qua quy định về đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa tại Luật Thương mại năm 2005, cần lưu ý một số điều sau:
So với Luật Thương mại năm 1997, khái niệm hàng hóa được mở rộng hơn để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới. Nội dung của khái niệm hàng hóa có thể khác nhau ở từng quốc gia tùy theo truyền thống văn hóa, điều kiện kinh tế – xã hội và nhu cầu giao lưu thương mại với quốc tế. Hàng hóa phải là những sản phẩm được phép lưu thông và mang tính thương mại (có thể sinh lời). Nếu các bên ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa bị cấm lưu thông trên thị trường thì hợp đồng đó sẽ không có hiệu lực. Do đó, việc xác định hàng hóa là đối tượng mua bán sẽ ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa. Với tính chất đối tượng là hàng hóa, hợp đồng mua bán hàng hóa được phân biệt với hợp đồng cung ứng dịch vụ, mà trong đó bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện theo yêu cầu của bên sử dụng dịch vụ. Hàng hóa là sản phẩm hữu hình, có khả năng lưu thông, mang tính thương mại và chuyển giao quyền sở hữu khi giao dịch mua bán hàng hóa. Ngược lại, dịch vụ là sản phẩm vô hình, không thể cầm nắm được, không thể xác lập quyền sở hữu, không lưu kho hoặc lưu bãi được.
Ở Việt Nam, khái niệm hàng hóa được quy định trong Luật Thương mại năm 1997 và Luật Thương mại năm 2005 có sự khác biệt. Khoản 3 Điều 5 Luật Thương mại năm 1997 quy định: Hàng hóa bao gồm máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, các động sản khác được lưu thông trên thị trường, nhà ở dùng để kinh doanh dưới hình thức cho thuê, mua, bán. Khái niệm hàng hóa tại Luật Thương mại năm 2005 không chỉ bao gồm các loại hàng hóa hữu hình có sẵn ở thời điểm ký kết hợp đồng mà còn bao gồm cả hàng hóa sẽ hình thành trong tương lai. Việc mở rộng khái niệm hàng hóa không chỉ thể hiện sự điều chỉnh rộng lớn của Luật Thương mại mà còn phản ánh nhu cầu cải thiện pháp luật khi Việt Nam tham gia vào hội nhập kinh tế với các quốc gia trong khu vực và trên toàn cầu.
Trong mối liên quan so sánh với đối tượng hợp đồng mua bán tài sản, có thể nhận thấy đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản rộng lớn hơn so với đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa. Theo Điều 431 Bộ luật dân sự năm 2015, đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản là tài sản được quy định tại Bộ luật dân sự. Khái niệm tài sản tại Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá trị và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản, cả hiện tại và trong tương lai. Quyền tài sản là quyền trị giá được thể hiện bằng tiền bao gồm quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác. Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa chỉ giới hạn ở động sản và vật gắn liền với đất đai. Do đó, những loại tài sản như giấy tờ có giá trị (cổ phiếu, trái phiếu) không được bao gồm trong phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại năm 2005. Các giao dịch mua bán cổ phiếu, trái phiếu giữa các thương nhân có tính chất tương tự như giao dịch mua bán hàng hóa trong thương mại, nhưng do cách giải thích về khái niệm hàng hóa nên những giao dịch này không chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại năm 2005. Điều này cũng là một vấn đề cần được thảo luận trong hoạt động nghiên cứu pháp luật.
Thứ ba, mục tiêu chính của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa là thu lợi. Điều này phản ánh và liên quan chặt chẽ đến đặc điểm của chủ thể chủ yếu trong hợp đồng mua bán hàng hóa là thương nhân. Theo lý thuyết và thực tế, thương nhân thường xuyên thực hiện các hoạt động thương mại, trong đó có việc mua bán hàng hóa, với mục đích thu lợi. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, một bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa không có mục tiêu thu lợi. Những hợp đồng được thiết lập giữa các bên không nhằm mục đích thu lợi với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam, về nguyên tắc, không chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại trừ khi bên không nhằm mục tiêu thu lợi đó lựa chọn áp dụng Luật Thương mại (Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005).
Thứ tư, hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó. Hình thức của hợp đồng là cách thể hiện và ghi nhận ý chí của các bên trong việc giao kết hợp đồng. Về nguyên tắc, các bên được tự do lựa chọn hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa trừ những trường hợp pháp luật có quy định cụ thể về hình thức hợp đồng. Luật Thương mại quy định đa dạng về các hình thức thể hiện của hợp đồng mua bán hàng hóa, nhưng các bên mua bán hàng hóa nên ký kết hợp đồng bằng văn bản. Ưu điểm của hình thức hợp đồng bằng văn bản so với hình thức hợp đồng bằng lời nói là:
Ghi nhận rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng;
Là cơ sở pháp lý rõ ràng để các bên xem xét thực hiện đúng, đầy đủ hợp đồng, đồng thời là tài liệu pháp lý quan trọng để cơ quan cồn thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng đó.
Theo quy định của Công ước Vienna về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế CISG, công nhận nguyên tắc tự do về hình thức hợp đồng, có nghĩa là hợp đồng mua bán hàng hóa không nhất thiết phải là bằng văn bản mà có thể được thiết lập bằng lời nói, bằng hành vi và có thể được chứng minh bằng mọi cách, kể cả bằng nhân chứng.
3. Hợp đồng mua bán hàng hoá có bắt buộc bằng văn bản?
Theo quy định tại Điều 24 của Luật Thương mại 2005, hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam được chỉ định cụ thể như sau:
Hợp đồng mua bán hàng hoá có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được thiết lập bằng hành vi cụ thể.
Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp luật quy định phải lập thành văn bản, thì phải tuân theo các quy định đó.
Trong đó, mua bán hàng hoá được xem là một hoạt động thương mại, trong đó bên bán phải giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận.
Như vậy, theo quy định trên, không phải tất cả các hợp đồng mua bán hàng hóa đều phải được lập thành văn bản.
TUYET NHUNG LAW cung cấp đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp và giàu kinh nghiệm xử lý các vụ án trên thực tế trong lĩnh vực Thương mại. Liên hệ tư vấn hoặc mời luật sư tham giao bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong các vụ án Thương mại tại Toà án và Trọng tài trong các tranh chấp liên quan đến Thương mại. Vui lòng liên hệ số điện thoại hotline: 0975.982.169 hoặc gửi yêu cầu qua email: buinhunglw2b@gmail.com để được hỗ trợ.