Nguyên tắc phân chia tài sản vợ chồng

Luật Tuyết Nhung Bùi - Hotline: 0975 982 169

[Người thực hiện: Chuyên viên Trần Xuân Đại]

Bài viết đề cập đến nội dung pháp lý liên quan đến Nguyên tắc phân chia tài sản vợ chồng, Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo thoả thuận giữa các bên, Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 được Công Ty Luật Tuyết Nhung Bùi giải đáp sử dụng vào mục đích tham khảo. 

1. Nguyên tắc phân chia tài sản vợ chồng

Việc chia tài sản của vợ chồng là vấn đề phức tạp, thường xảy ra nhiều tranh chấp giữa vợ chồng khi li hôn và gặp nhiều vướng mắc trong thực tiễn xét xử nhiều năm ở nước ta hiện nay. Đối với trường hợp Vợ chồng không thể tự thỏa thuận với nhau, Tòa án cần phải điều tra về quan hệ tài sản của vợ chồng; Xác định đâu là tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng; những tài sản nào thuộc khối tài sản chung của hai vợ chồng; xác định nguồn gốc; giá trị, số lượng, tình hình tài sản, tình trạng cụ thể của gia đình… Sau đó Tòa án áp dụng các nguyên tắc quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để chia, kết hợp với từng trường hợp cụ thể được quy định tại điều 60, 61, 62, 63 và 64 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của hai bên vợ, chồng cũng như các thành viên khác trong gia đình có lợi ích liên quan tới tài sản chung. Ngoài ra Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng dẫn thi hành một số quy định của luật hôn nhân và gia đình.
Theo nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng, nếu chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận áp dụng điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
Trường hợp nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2,3,4 và 5 điều 59 và các điều 60, 61, 62, 63, 64 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận nhưng thỏa thuận đó không đầy đủ và rõ ràng thì áp dụng quy định tương ướng tại các khoản 2,3,4 và 5 điều 59 và các điều 60, 61, 62, 63, 64 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết.
Theo quy định này, trường hợp có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, văn bản có hiệu lực thì việc chia tài sản của vợ chồng tuân theo thủa thuận trong văn bản đó, nếu có điều khoản nào trong văn bản thỏa thuận không rõ ràng thì áp dụng các điều khoản tương ướng để giải quyết, cả trong trường hợp không có văn bản thỏa thuận hoặc văn bản vô hiệu thì áp dụng chế độ tìa sản của vợ chồng theo luật định để giải quyết.
Như vậy, theo nguyên tắc thì mỗi chế độ tài sản khác nhau lại được áp dụng những quy định khác nhau để giải quyết nhưng chung quy lại trong cả hai trường hợp chế độ tài sản theo thoả thuận hoặc chế độ tài sản theo luật định thì việc giải quyết tài sản được chia thành hai hướng: một là theo thoả thuận giữa vợ và chồng. Hai là nếu không thoả thuận hoặc thoả thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng theo quy định của luật.

2. Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo thoả thuận giữa các bên

Khi quan hệ hôn nhân giữa hai vợ chồng chấm dứt, pháp luật tôn trọng quyền tự định đoạt tài sản chung của họ tức là họ có quyền thoả thuận về phân chia tài sản chung bào gồm những tài sản có liên quan đến giao dịch với người thứ ba, tài sản chung năm trong khối tài sản cùa gia đình, quyền sử dụng đất và những tài sản chung khác được đưa vào kinh doanh và nhiều tài sản chung khác. Mấu chốt ở đây chính là sự tự thoả thuận giữa hai vợ chồng nhưng xen lẫn vào đó là những yếu tố tình cảm như yêu, ghét, thù hận,… Bên cạnh đó, khi hai bên vợ chồng thoả thuận thường sẽ có mặt những người có quan hệ thân thích với họ để phân tích, giải thích cũng như đánh giá xem giữa vợ chồng thì người nào sẽ được hưởng những gì nhưng đây cũng chỉ là ý kiến của bên thứ ba, còn quan trọng nhất vẫn phụ thuộc vào sự thống nhất ý chí giữa hai bên vợ chồng. Ngoài ra, trong quá trình thoả thuận hai bên sẽ tính đến những yếu tố khác như hoàn cảnh của gia đình và của vợ chồng nếu như sau khi hai bên ly hôn mà người vợ có khó khăn trong việc lao động để tạo lập của cải nuôi sống mình thì người vợ có thể theo thoả thuận nhận phần nhiều hơn thậm chí là tất cả tài sản nhưng yếu tố quan trọng nhất vẫn là ý chí của người chồng. Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển của khối tài sản cũng được xem xét đến khi tiến hành thoả thuận. Một yếu tố không thể thiếu đó là lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ vợ chồng, có nhiều trường hợp vì người chồng có hành vì ngoại tình và có đầy đủ chứng cứ nên khi thoả thuận chia tài sản chung vì cảm thấy bản thân mình có lỗi nên họ có thể “ra đi” tay trắng và để lại toàn bộ tài sản cho người vợ và con (nếu có)

3. Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014

3.1. Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng theo luật định

Pháp luật tôn trọng và trao quyền tự thoả thuận về phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn nhưng có thể vì một lý do nào đó mà giữa hai bên vợ chồng không thể thoả thuận hoặc có thoả thuận từ trước (khi vợ chồng áp dụng chế độ tài sản thoả thuận) nhưng thoả thuận không đầy đủ, rõ ràng hoặc vợ chồng không thoả thuận thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của cả hai vợ chồng, Toà án giải quyết theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Và đương nhiên để đảm bảo cho quyền, lợi ích hợp pháp của đôi bên thì pháp luật cũng quy định những nguyên tắc khi chia tài sản chung.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định khi ly hôn tài sản sẽ được chia đôi nhưng có tính những yếu tố như:
Thứ nhất, hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng. Quy định này được viện dẫn tại điểm a khoản 4 Điều 7 Thông tư liên tịch 01/2016 TTLT-TANDTCVKSNDTC-BTP, được hiểu là tình trạng về năng lực pháp luật, năng lực hành vi, sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu nhập sau khi ly hôn của vợ, chồng cũng như của các thành viên khác trong gia đình mà vợ chồng có quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Bên gặp khó khăn hơn sau khi ly hôn được chia phần tài sản nhiều hơn so với bên kia hoặc được ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống của họ nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế của gia đình và của vợ, chồng.
Thứ hai, công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập. Khi hai bên vợ chồng cùng nhau tạo lập nên khối tài sản chung thì không thể lúc nào cũng đóng góp vào khối tài sản chung “bằng nhau” được, và không ít gia đình có “truyền thống” người chồng là “trụ cột” của gia đình nên phải ra ngoài kiếm tiền để “nuôi” gia đình còn người vợ chỉ ở nhà và có nhiệm vụ chăm sóc gia đình. Vì vậy, khi hai bên ly hôn không ít trường hợp người chồng phủ nhận những đóng góp của vợ (vì lý do người phụ nữ chỉ ở nhà chăm sóc gia đình, con cái mà không lao động để tạo thu nhập cho gia đình) nên những nhà làm luật cũng đã dự liệu và xem việc ở nhà chăm sóc gia đình, con cái là lao động có thu nhập ngang bằng với thu nhập do người kia lao động mà có. Đây là một trong những quy định tiến bộ của pháp luật về hôn nhân và gia đình của nước ta, một mặt đảm bảo sự công bằng về công sức của hai bên trong việc tạo lập, đóng góp và phát triển khối tài sản chung, mặt khác quyền, lợi ích hợp pháp của các bên vẫn được bảo đảm.
Thứ ba, bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập. Việc chia tài sản chung của vợ chồng phải bảo đảm cho vợ, chồng đang hoạt động nghề nghiệp được tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất, kinh doanh được tiếp tục được sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản chênh lệch. Việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và hoạt động nghề nghiệp không được ảnh hưởng đến điều kiện sống tối thiểu của vợ, chồng và con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự. Ví dụ: Vợ chồng có tài sản chung là một chiếc ô tô người chồng đang chạy xe taxi trị giá 400 triệu đồng và một cửa hàng tạp hóa người vợ đang kinh doanh trị giá 200 triệu đồng. Khi giải quyết ly hôn và chia tài sản chung, Tòa án phải xem xét giao cửa hàng tạp hóa cho người vợ, giao xe ô tô cho người chồng để họ tiếp tục kinh doanh, tạo thu nhập. Người chồng nhận được phần giá trị tài sản lớn hơn phải thanh toán cho người vợ phần giá trị là 100 triệu đồng.
Thứ tư, lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền và nghĩa vụ của vợ chồng là lỗi của vợ hoặc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly hôn. Ví dụ: Trường hợp người chồng có hành vi bạo lực gia đình, không chung thủy hoặc phá tán tài sản thì khi giải quyết ly hôn Tòa án phải xem xét yếu tố lỗi của người chồng khi chia tài sản chung của vợ chồng để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của vợ và con chưa thành niên.
Ngoài ra, theo khoản 3, 4 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 tài sản chung của vợ chồng nếu là hiện vật thì sẽ được chia theo hiện vật, nếu không chia được thì chia theo phần giá trị và bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật mà có giá trị lớn hơn phần của mình thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệnh. Tài sản riêng của người nào thì thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp đã nhập vào tài sản chung và nếu vợ chồng có yêu cầu chia thì được thanh toán phần giá trị tài sản đã nhập vào khối tài sản chung, trừ trường hợp hai bên có thoả thuận khác.
Một nguyên tắc quan trọng không thể thiếu trong việc chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc mất khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Ví dụ: Khi chia nhà ở là tài sản chung và là chỗ ở duy nhất của vợ chồng, trong trường hợp không chia được bằng hiện vật thì Tòa án xem xét và quyết định cho người vợ hoặc chồng trực tiếp nuôi con chưa thành niên, con bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự nhận hiện vật và thanh toán giá trị tương ứng với phần tài sản được chia cho người chồng hoặc vợ nếu người vợ hoặc chồng có yêu cầu.

3.2. Giải quyết quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba (Điều 60)

Theo quy định tại khoản 1 Điều 60 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực sau khi ly hôn, trừ trường hợp vợ chồng và người thứ ba có thoả thuận khác”.Trong cuộc sống vợ chồng không thể tránh khỏi những trường hợp cả hai vợ chồng cùng phát sinh quan hệ tài sản với người thứ ba, chẳng hạn như hai vợ chồng cùng thoả thuận với người thứ ba mua bán một tài sản nào đó như nhà, quyền sử dụng đất,… Nếu trong thời khi hôn nhân vợ chồng đã giải quyết hết toàn bộ quyền, nghĩa vụ tài sản với người thứ ba thì việc chia tài sản chung sẽ phần nào trở nên đơn giản hơn. Tuy nhiên, đặt trường hợp quyền, nghĩa vụ tài sản với người thứ ba vẫn chưa được giải quyết trong thời kỳ hôn nhân mà kéo dài đến khi ly hôn thì phải giải quyết như thế nào? Dự liệu được trên thực tế sẽ xảy ra những trường hợp như thế, các nhà làm luật đã quy định khi đó quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp vợ chồng và người thứ ba có thoả thuận khác. Có thể thấy mục đích của quy định trên là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cả vợ chồng và người thứ ba, ví dụ: trong thời kì hôn nhân vợ chồng anh A chị B có vay của anh C số tiền 200 triệu, nhưng vì lý do nào đó mà giữa vợ chồng anh A xảy ra mâu thuẫn dẫn đến ly hôn. Khi đó, nghĩa vụ trả nợ cho anh C của hai vợ chồng anh A vẫn có hiệu lực và theo thoả thuận của các bên mà đưa ra phương thức thanh toán nợ cho anh C.
Ngoài ra, khoản 2 Điều 60 Luật hôn nhân và gia đình 2014 đã dự liệu trong trường hợp có tranh chấp vế quyền, nghĩa vụ tài sản thì áp dụng quy định tại các điều 27, 37 và 45 của Luật này và quy định của Bộ luật dân sự để giải quyết. Và nguyên tắc trong chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn, Tòa án phải xác định vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba hay không để đưa người thứ ba vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba mà họ có yêu cầu giải quyết thì Tòa án phải giải quyết khi chia tài sản chung của vợ chồng. Trường hợp vợ chồng có nghĩa vụ với người thứ ba mà người thứ ba không yêu cầu giải quyết thì Tòa án hướng dẫn họ để giải quyết bằng vụ án khác. Căn cứ theo quy định tại Điều 27: “1. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 30 hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25 và 26 của Luật này. 2. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật này” . Đối với những giao dịch nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của gia đình, những giao dịch khi tham gia kinh doanh chung và giao dịch liên quan đến giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản chung nhưng chỉ ghi tên vợ hoặc chồng thì vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với người thứ ba trong các giao dịch ấy.
Không những thế vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với những nghĩa vụ chung được quy định tại Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 gồm:
Một là nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thoả thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm liên đới. Khi vợ chồng đồng thuận cùng nhau thực hiện giao dịch dân sự như liên quan đến tài sản chung, vay tiền, thế chấp tài sản… thì vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với các giao dịch đó.
Hai là nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Gia đình là tế bào cần được chăm nom, nuôi dưỡng, việc chi tiêu cho cuộc sống gia đình là cần thiết, hơn hết hôn nhân được xây dựng dựa trên mong muốn từ hai phía để tạo ra một cuộc sống tốt đẹp hơn. Khi một bên thực hiện nghĩa vụ nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình như sửa nhà, ăn uống, chăm con… thì người còn lại cũng phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ đó.
Ba là nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, nghĩa là vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung vì thế khi sử dụng, chiếm hữu, định đoạt những tài sản ấy mà phát sinh nghĩa vụ thì vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới.
Bốn là việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu cho gia đình mà phát sinh nghĩa vụ thì nghĩa vụ đó là nghĩa vụ chung của vợ chồng. Quy định này thể hiện tính công bằng và sự tiến bộ trong lĩnh vực lập pháp của nước ta, tính công bằng thể hiện ở chỗ khi một bên vợ hoặc chồng sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu nhằm đảm bảo cho gia đình có điều kiện về vật chất, tinh thần cho gia đình, xã hội mà phát sinh nghĩa vụ thì cả vợ, chồng đều có trách nhiệm liên đới (vì mục đích ban đầu của hôn nhân là chung sống bên nhau suốt đời, xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc).
Năm là nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường và nghĩa vụ khác theo quy định của luật có liên quan. Theo đó khoản 2 Điều 589 Bộ luật dân sự 2015 có quy định người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý. Ví dụ: C 14 tuổi là con của anh A chị B, C đã làm hỏng chiếc xe máy hiệu AB của a D và chi phí sửa chữa là 10 triệu. Trong trường hợp này anh A chị B có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho anh D cho cháu C gây ra. Ngoài ra, người từ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi mà gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình nêu không đủ thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình

3.3. Chia tài sản chung trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình (Điều 61)

Mục đích của hôn nhân là xây dựng cuộc sống ấm no, gia đình hạnh phúc và để xây dựng được những điều trên là hoàn toàn không dễ dàng nếu vợ chồng không sống chung với nhau thì làm sao có thể tạo nên gia đình hạnh phúc, ngoại trừ những trường hợp vì đặc thù nghề nghiệp, tính chất công việc mà vợ chồng phải sống xa nhau. Bên cạnh đó, không phải bất cứ cặp vợ chồng nào khi tiến đến hôn nhân cũng có thể “tự thân” xây dựng “tổ ấm” cho mình, trường hợp những cặp đôi sau khi trở thành vợ chồng và sống chung với gia đình bên vợ hoặc bên chồng không phải là hiếm ở trong xã hội ngày nay thậm chí còn rất nhiều, đặc biệt là ở Việt Nam do sự chi phối của các phong tục, tập quán truyền thống như rước dâu, ở rễ thể hiện tinh thần hiếu đạo của con người đất Việt từ xưa đến nay. Chính vì thế, khi hôn nhân giữa vợ chồng xuất hiện những mâu thuẫn, khủng hoảng mà không thể giải quyết, kéo theo đó là “dấu chấm hết” của cuộc hôn nhân thì quan hệ tài sản của vợ chồng lại phát sinh những vấn đề như vợ chồng sống chung với gia đình mà có tài sản chung nằm trong khối tài sản gia đình thì khi ly hôn việc chia tài sản chung ấy được giải quyết như thế nào? Nhận thức từ thực tiễn xã hội, các luật gia đã dự liệu được những tình huống như thế đồng thời tạo ra các quy định nhằm giải quyết vấn đề ấy
Theo quy định tại khoản 1 Điều 61 Luật Hồn nhân và gia đình 2014, trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung với gia đình căn cứ vào công sức đóng góp của vơ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung ấy và đời sống chung của gia đình. Việc phân chia ấy do vợ chồng thoả thuận với gia đình hoặc yêu cầu Toà án giải quyết. Ở đây, khối tài sản chung của gia đình được tính thêm công sức của vợ chồng trong việc đóng góp, giữ gìn cũng như phát triển khối tài sản chung của gia đình, giúp đảm bảo cho tất cả thành viên trong gia đình theo nhu cầu của mỗi người. Và khi vợ chồng ly hôn mà tài sản chung của họ nằm trong khối tài sản chung của gia đình mà không xác định được thì họ vẫn có quyền được hưởng một phần tài sản có thể là do họ đóng góp tài sản riêng hoặc công sức trong phát triển khối tài sản chung của gia đình, điều này hoàn toàn hợp lý cũng như đảm bảo sự công bằng cho mỗi bên. Việc phân chia cũng như xem xét thế nào là “một phần tài sản” và cách tính “một phần tài sản ấy” là do vợ chồng thoả thuận cùng gia đình nếu không thì có thể nhờ đến Toà án giải quyết và khi giải quyết thì Toà án cần phải lưu ý đến việc xác định giá trị khối tài sản chung của vợ chồng hoặc phần giá trị mà họ phải thanh toán, họ được hưởng là căn cứ vào giá giao dịch thực tế tại địa phương vào thời điểm xét xử.
Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia và việc phân chia cũng như nguyên tắc phân chia tương tự trường hợp trên.

3.4 Chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn (Điều 62)

Khi hôn nhân tan vỡ, bên cạnh “cú sốc” về tình cảm, các căp đôi c ̣ òn “đau đầu” bởi viêc phân chia tài sản, đặc biệt là tài sản lớn như nhà đất. Việc phân chia tài sản chung là quyền sử dụng đất có ý nghĩa rất quan trọng đối với mội bên vì đây là một loại tài sản đặc biệt
Theo quy định tại khoản 2 Điều 62 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “2. Việc chia quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được thực hiện như sau: a) Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, nếu cả hai bên đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo thỏa thuận của hai bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định tại Điều 59 của Luật này. Trong trường hợp chỉ một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng; b) Trong trường hợp vợ chồng có quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản chung với hộ gia đình thì khi ly hôn phần quyền sử dụng đất của vợ chồng được tách ra và chia theo quy định tại điểm a khoản này; c) Đối với đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở thì được chia theo quy định tại Điều 59 của Luật này; d) Đối với loại đất khác thì được chia theo quy định của pháp luật về đất đai”, đất nông nghiệp và đất trồng cây hằng năm, nuôi trồng thuỷ sản là một trong những loại đất quan trọng ở nước Việt Nam hiện nay vì nước ta là một trong những quốc gia nông nghiệp trên thế giới tuy đã có sự chuyển biến mạnh mẽ trong tỉ trọng cơ cấu ngành kinh tế nhưng nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế ở nước ta. Theo quy định tại điểm a, đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản là tài sản chung của vợ chồng thì khi ly hôn sẽ được phân chia thành hai trường hợp để chia.
Trường hợp đầu tiên, cả hai bên vợ chồng đều có nhu cầu và điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì sẽ chia theo thoả thuận của các bên, nếu không có thoả thuận thì yêu cầu Toà án giải quyết theo quy định Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Cả vợ và chồng phải là những người có nhu cầu sử dụng đất, có thể nhu cầu của vợ và chồng khác hoặc giống nhau như tạo ra của cải vật chất để có cuộc sống tốt đẹp hơn, nuôi dạy con cái trong môi trường tốt hơn,… và kèm theo nhu cầu ấy là phải có điều kiện trực tiếp sử dụng có thể hiểu là có đủ thời gian, công sức, tiền bạc cũng như điều kiện đi lại hoặc hoàn cảnh gia đình của các bên để quản lý, khai thác nguồn lợi từ phần đất được phân chia. Nhưng việc xác định thế nào là có nhu cầu sử dụng và thế nào là điều kiện trực tiếp thì gần như là một vấn đề nan giải đối với các cơ quan có thẩm quyền cũng như về phía hai bên. Ngoài ra, nếu giữa vợ chồng đều có nhu cầu và điều kiện thì pháp luật tôn trọng sự thoả thuận giữa họ về việc phân chia tài sản chung là quyền sử dụng đất ấy. Nếu họ không thể thống nhất với nhau thì lúc bấy giờ, Toà án sẽ là cơ quan giải quyết việc phân chia, khi đó Toà án phải dựa vào những nguyên tắc được quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 để phân chia như thế nào cho phù hợp với công sức mà đôi bên đã bỏ ra trong việc tạo lập, duy trì và phát triển tài sản ấy cũng như bảo vệ quyền, lợi ích của bà mẹ, trẻ em cũng như con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Trường hợp thứ hai, nếu chỉ có một bên có nhu cầu và điều kiện trực tiếp thì bên đó sẽ tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho bên còn lại phần giá trị quyền sử dụng đất mà bên kia có quyền. Việc thanh toán cũng do các bên tự thoả thuận và nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Ví dụ: vợ chồng anh chị A có tài sản chung là quyền sử dụng đất đối với mảnh đất nông nghiệp trồng cây hàng năm có diện tích là 10 ha, sau đó hai anh chị ly hôn và chỉ có anh A có nhu cầu cũng như điều kiện trực tiếp sử dụng thì trong trường hợp này anh A được tiếp tục sử dụng cũng như phải có nghĩa vụ thanh toán cho chị B phần giá trị quyền sử dụng đất mà chị được hưởng (có thể theo thoả thuận hoặc theo quyết định, bản án có hiệu lực của Toà án).
Bên cạnh đó, nếu vợ chồng có quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hang năm, nuôi trồng thuỷ sản chung với hộ gia đình thì khi ly hôn phần quyền sử dụng đât của vợ chồng được tách ra và chia theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 62 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Đây là một quy định cần thiết vì không hiếm những trường hợp vợ chồng sử dụng tài sản chung của mình để góp vào tạo thành tài sản chung gia đình là quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản thì khi vợ chồng ly hôn phần tài sản ấy phải được tách ra để đảm bảo cho việc phân chia tài sản chung giữa vợ chồng đúng theo thoả thuận giữa họ hoặc phù hợp với công sức, của cải mà hai bên đã bỏ ra
Về phần đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở thì được chia theo quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 (điểm c khoản 2 Điều 62 Luật Hôn nhân và gia đình 2014). Cón đối với các loại đất khác thì chia theo quy định của pháp luật về đất đai. Sự phát triển và ngày càng hoàn thiên c ̣ ủa hê tḥ ống pháp luât đ̣ ất đai đã và đang có nhiều đóng góp trong viêc̣ giải quyết triêt đ̣ ể những vướng mắc trong quá trình phân chia tài sản chung là nhà đất của vợ chồng khi ly hôn
Tại khoản 3 Điều 62, nếu như vợ chồng sống chung với gia đình mà không có quyền sử dụng đất chung với gia đình thì khi ly hôn quyền lợi của bên không có quyền sử dụng đất và không tiếp tục sống chung với gia đình được giải quyết theo quy định tại Điều 61 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Việc bảo đảm quyền, lợi ích cho các bên khi ly hôn rất quan trọng nhất là đối với việc phân chia tài sản chung. Trong nhiều trường hợp mặc dù vợ chồng sống chung với gia đình nhưng không có quyền sử dụng đất chung thì khi họ ly hôn những quyền lợi vẫn được tôn trọng và bảo đảm vì trong quá trình chung sống với gia đình có thể họ đã đóng góp tài sản riêng của mình hoặc công sức vào việc tạo lập, duy trì tài sản chung của gia đình. Chính về thế, khi họ “ra đi” pháp luật vẫn bảo vệ cho quyền và ợi ích hợp pháp của họ.

3.5 Quyền lưu cư của vợ hoặc chồng khi ly hôn (Điều 63)

Điều 63 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định trong trường hợp mà nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn vẫn thuộc sở hữu riêng của người đó; trường hợp sau khi ly hôn vợ hoặc chồng có có khó khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Xuất phát từ thực tiễn cuộc sống cũng như bảo vệ quyền lợi của mỗi bên trong quan hệ hôn nhân mà đặc biệt về phía người vợ nên pháp luật đã quy định như thế. Tuy nhiên việc quy định thế nào là “khó khăn về chỗ ở” cần phải có những hướng dẫn cụ thể hơn, ví dụ: không có khả năng tài chính để thuê một chỗ ở mới,… Thời hạn 06 tháng có thể nói là con số ước lượng mà các nhà làm luật đã đưa ra, trên thực tế dựa vào nhiều hoàn cảnh khác nhau mà việc tìm được nơi ở mới đối với một trong hai bên vợ chồng là hoàn toàn khác nhau. Nhưng tại phần cuối của Điều 63 các nhà làm luật đã trao quyền lựa chọn cho các bên khi quy định “trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác”, nhằm mục đích để hai bên có thể đạt được những gì mà mình mong muốn nhất trong việc giải quyết vấn đề chỗ ở cho bên có khó khăn.

3.6 Chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh (Điều 64)

Về phần tài sản chung được đưa vào kinh doanh thì khi ly hôn vợ, chồng đang thực hiện hoạt động kinh doanh liên quan đến tài sản chung có quyền được nhận tài sản đó và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản mà họ có quyền được hưởng, tài sản chung đưa vào kinh doanh nhằm mục đích phát triển khối tài sản để đảm bảo nhu cầu về vật chất, tinh thần cho gia đình vì thế đây được coi là một trong những tài sản quan trọng đối với các bên nên khi phân chia mà vợ, chồng đang có hoạt động kinh doanh liên quan đến tài sản chung ấy pháp luật cũng tạo điều kiện thuận lợi cho họ. Nếu như vợ, chồng đang thực hiện hoạt động kinh doanh liên quan đến tài sản mà bắt buộc họ phải phân chia tài sản ấy bằng cách bán tài sản và chia cho bên kia thì sẽ rất khó cho bên đang hoạt động nên thay vào đó bên đang có hoạt động kinh doanh sẽ bù cho bên còn lại phần giá trị mà bên kia được hưởng. Ngoài ra, tại Điều 64 cũng có quy định những trường hợp mà pháp luật kinh doanh có quy định khác. Pháp luật kinh doanh là tổng thể quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình kinh doanh. Những văn bản điều chỉnh hoạt động kinh doanh có thể kể đến như Bộ luật dân sự 2015, Luật Đất đai 2013, Luật thương mại 2005, Luật doanh nghiệp 2014 và các văn bản hướng dẫn. Chính vì thế, chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh cần phải xét đến điều kiện sử dụng của đôi bên cũng như tuân theo các quy định của pháp luật.

TUYẾT NHUNG LAW cung cấp đội ngũ luật sư tư vấn giàu kinh nghiệm trong các lĩnh vực pháp luật. Liên hệ tư vấn các vấn pháp luật, vui lòng liên hệ theo số điện thoại 0975.982.169 hoặc qua email: lienhe@tuyetnhunglaw.vn để được hỗ trợ.
Luật sư Bùi Thị Nhung: