Quy định về đại diện của pháp nhân?
Bài viết này đề cập đến nội dung pháp lý liên quan đến quy định về đại diện của pháp nhân? Có mấy loại đại diện? Đặc điểm phân biệt giữa đại diện theo pháp luật và đại diện theo uỷ quyền? Trách nhiệm của pháp nhân đối với hoạt động do đại diện pháp nhân thực hiện? Trường hợp nào người đại diện tự phải chịu trách nhiệm cho hành vi của mình sẽ được làm rõ trong bài viết này để tham khảo.
1. Quy định về đại diện của pháp nhân?
Theo quy định tại Điều 85 của Bộ luật Dân sự 2015, đại diện của pháp nhân có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền. Người đại diện của pháp nhân phải tuân theo quy định về đại diện được quy định chi tiết tại Chương IX của Phần này. Cụ thể, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm: người được chỉ định theo điều lệ của pháp nhân, người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật, và người được Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án. Mỗi pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định tại Điều 140 và Điều 141 của Bộ luật Dân sự 2015.
1.1. Đại diện theo pháp luật?
Theo quy định hiện hành trong Bộ luật Dân sự 2015, đại diện theo pháp luật của pháp nhân được quy định như sau:
Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm: Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ của pháp nhân; Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật và Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án.
Theo quy định của pháp luật, mỗi pháp nhân có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định tại Điều 140 và Điều 141 của Bộ luật Dân sự 2015. Quy định này cũng dự đoán trường hợp pháp nhân có nhiều người đại diện theo pháp luật (khoản 2, Điều 137).
Ngoài ra, theo Bộ luật Dân sự 2015, mỗi người đại diện trong số những người đại diện theo pháp luật của pháp nhân chỉ được xác định, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo nội dung ủy quyền hoặc theo qui định của pháp luật (khoản 1, Điều 141), và phải thông báo cho bên giao dịch biết về phạm vi đại diện của mình (khoản 4, Điều 141).
Từ đó, có thể thấy rằng Bộ luật Dân sự 2015 không dự đoán phạm vi đại diện của người đại diện hoặc các người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có tính chất tổng quát. Thay vào đó, quy định tập trung vào thẩm quyền đại diện của mỗi người đại diện trong số những người đại diện theo pháp luật của pháp nhân và dành toàn bộ việc xác định phạm vi đại diện này cho văn bản trao quyền đại diện.
Điều này gợi ý rằng nếu người đại diện hoặc các người đại diện theo pháp luật của pháp nhân không có thẩm quyền đại diện cho tất cả các công việc của pháp nhân, pháp nhân sẽ không thể hoạt động hoặc hoạt động không đầy đủ theo mục đích và chức năng của mình. Bộ luật này cũng như Luật Doanh nghiệp 2020 không dự đoán việc nại ra hoặc lạm dụng việc có nhiều người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, mà hạn chế thẩm quyền đại diện của từng người để chống lại bên thứ ba ngay tình. Bộ luật Dân sự 2015 có xu hướng buộc người đại diện theo pháp luật của pháp nhân đã giao kết hợp đồng vượt quá phạm vi của sự ủy quyền phải thực hiện phần nghĩa vụ vượt quá theo quy định của pháp luật.
1.2. Đại diện theo uỷ quyền?
Khoản 1 của Điều 142 trong Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Đại diện theo ủy quyền là người được ủy quyền theo sự thỏa thuận giữa người đại diện và người được đại diện”.
Do đó, người được ủy quyền là người đại diện cho người ủy quyền dựa trên thoả thuận giữa các bên. Vì vậy, ngoài các điểm đặc thù của quy định đại diện, người được ủy quyền cũng phải tuân thủ các quy định của pháp luật về hợp đồng ủy quyền.
Thêm vào đó, theo quy định tại Khoản 1 của Điều 138, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”. Dựa trên quy định này, có thể thấy Bộ luật Dân sự năm 2015 đã công nhận khả năng của pháp nhân ủy quyền cho cá nhân hoặc pháp nhân khác để thực hiện các giao dịch dân sự theo quy định của pháp luật.
Ảnh minh hoạ
1.3. Phân biệt đại diện theo pháp luật và đại diện theo uỷ quyền?
Theo quy định tại các Điều 136, 137, 138 Bộ luật dân sự 2015 quy định về đại diện theo pháp luật và đại diện theo quy quyền có thể phân biệt hai dạng dại diện này như sau:
Tiêu chí | Đại diện theo pháp luật | Đại diện theo ủy quyền |
CSPL | Điều 136 và 137 Bộ Luật dân sự 2015 | Điều 138 Bộ Luật dân sự 2015 |
Khái niệm | Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định bao gồm: Đại diện theo pháp luật của cá nhân và đại diện theo pháp luật của pháp nhân. | Đại diện theo ủy quyền là đại diện được thực hiện theo sự ủy quyền của người được đại diện và người đại diện. |
Căn cứ xác lập quyền đại diện | Căn cứ xác lập theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật. | Căn cứ xác lập trong trường hợp này là quyền đại diện được xác lập theo ủy quyền giữa người được đại diện và người đại diện. |
Các trường hợp đại diện | – Người đại diện theo pháp luật của cá nhân bao gồm:+ Cha, mẹ đối với con chưa thành niên; + Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định; + Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện theo quy định nêu trên; + Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. + Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ; + Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật; + Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án. | – Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. – Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân. – Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện. |
Năng lực hành vi dân sự của người đại diện
| Pháp luật quy định người đại diện phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện. | Pháp luật quy định người đại diện không nhất thiết phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ (Khoản 3 Điều 138 BLDS 2015). |
Phạm vi đại diện | Pháp luật quy định về phạm vi đại diện theo pháp luật rộng hơn phạm vi đại diện theo ủy quyền. Người đại diện theo pháp luật có quyền thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện được pháp luật thừa nhận, không làm ảnh hưởng tới lợi ích của người được đại diện trừ trường hợp pháp luật hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quy định khác. | Phạm vi đại diện đối với ủy quyền đó là người đại diện chỉ được xác lập các giao dịch trong phạm vi được uỷ quyền (bao gồm nội dung giao dịch và thời hạn được ủy quyền). |
Thời hạn đại diện
| Thời hạn theo quy định đó là theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật. | Thời hạn theo quy định đó là đại diện được xác định theo văn bản ủy quyền. |
Chấm dứt đại diện | Pháp luật quy định về chấm dứt đại diện khi: + Người được đại diện là cá nhân đã thành niên hoặc năng lực hành vi dân sự đã được khôi phục+ Người được đại diện là cá nhân chết;+ Người được đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại;+ Căn cứ khác theo quy định của Bộ luật Dân sự hoặc luật khác có liên quan. | Pháp luật quy định chấm dứt đại diện theo ủy quyền khi + Theo thỏa thuận; + Thời hạn ủy quyền đã hết; + Công việc được ủy quyền đã hoàn thành; + Người được đại diện hoặc người đại diện đơn phương chấm dứt thực hiện việc ủy quyền; + Người được đại diện, người đại diện là cá nhân chết; người được đại diện, người đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại; + Người đại diện không còn đủ điều kiện quy định tại khoản 3 Điều 134 của BLDS 2015; + Căn cứ khác làm cho việc đại diện không thể thực hiện được. |
2. Trách nhiệm của pháp nhân đối với hoạt động do đại diện pháp nhân nhân danh thực hiện?
Trong mọi trường hợp, pháp nhân chỉ cần chịu trách nhiệm dân sự của người đại diện nhân danh khi đó là vì lợi ích của pháp nhân và được coi là hành vi của pháp nhân. Pháp nhân không thể từ chối trách nhiệm của mình khi người đại diện tham gia vào các giao dịch với tư cách của pháp nhân và trong phạm vi thẩm quyền theo quy định của điều lệ hoặc của pháp luật. “Một pháp nhân phải bồi thường mọi thiệt hại gây ra bởi người quản lý hoặc các người đại diện khác của pháp nhân trong khi thực hiện nhiệm vụ của họ, và có quyền khiếu nại người gây ra thiệt hại đó” (Bộ luật Dân sự 2015, Điều 142).
Trong quá trình hoạt động, pháp nhân có thể gây thiệt hại cho bên thứ ba qua hành động của người đại diện. Nếu người đại diện thực hiện các hành động nhân danh và vì lợi ích của pháp nhân trong phạm vi thẩm quyền của họ, thì pháp nhân không thể từ chối trách nhiệm dân sự của mình. Hoạt động của người đại diện dựa trên quy định của điều lệ pháp nhân được xem xét là hành vi của pháp nhân.
Nếu pháp nhân từ chối trách nhiệm bằng cách thay đổi các văn bản nội bộ, pháp luật Thái Lan dự liệu và quy định cụ thể: “Không được thiết lập bất kỳ hạn chế hoặc sửa đổi nào về quyền hạn đại diện của những người quản lý, nhằm chống lại những người thứ ba có thiện ý” (Thái Lan). Vấn đề này chưa được quy định trong pháp luật Việt Nam hiện hành.
Trong thực tế, cần phải rõ ràng về trách nhiệm dân sự của pháp nhân và người đại diện cá nhân. Người đại diện hành động vì lợi ích cá nhân hoặc cần được sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền trong phạm vi nội bộ của pháp nhân. Trách nhiệm dân sự đối với hoạt động này không phát sinh cho pháp nhân mà chỉ đối với người đại diện. Vì vậy, pháp luật thiết lập trách nhiệm dân sự đối với người đại diện của pháp nhân để bảo vệ lợi ích của pháp nhân, chủ sở hữu và bên thứ ba.
3. Người đại diện phải tự chịu trách nhiệm khi nào?
Trách nhiệm dân sự của người đại diện pháp nhân liên quan đến tài sản cá nhân của họ đối với pháp nhân hoặc bên thứ ba có quan hệ pháp luật với pháp nhân. Trách nhiệm này phát sinh khi người đại diện vi phạm nghĩa vụ hoặc phạm vi đại diện theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc pháp luật.
Trách nhiệm dân sự của người đại diện là hậu quả pháp lý không mong muốn cho họ và là biện pháp xử lý cho vi phạm nghĩa vụ dân sự. Trách nhiệm dân sự của người đại diện có thể áp dụng cho vi phạm hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng. Trách nhiệm dân sự của người đại diện có thể áp dụng cho cá nhân hoặc cùng với pháp nhân và liên quan đến bên thứ ba.
Trong các hoạt động nhân danh, người đại diện cho pháp nhân phải thực hiện trách nhiệm của mình theo quy định của điều lệ và pháp luật. Trách nhiệm dân sự của cá nhân người đại diện có thể phát sinh đối với pháp nhân, chủ sở hữu của pháp nhân hoặc bên thứ ba. Có các trường hợp đặt ra trách nhiệm dân sự của người đại diện pháp nhân như sau:
Trường hợp 1: Người đại diện thực hiện hành vi vi phạm pháp luật:
Người đại diện thực hiện hành vi vi phạm pháp luật nhưng vượt quá phạm vi đại diện của mình. Trong trường hợp pháp nhân biết hoặc có khả năng kiểm soát hành vi của người đại diện, pháp nhân vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với người đại diện. Nếu hành vi vi phạm diễn ra ngoài phạm vi kiểm soát và biết của pháp nhân, thì pháp nhân không chịu trách nhiệm và chỉ người đại diện cá nhân phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định về trường hợp này.
Trường hợp 2: Người đại diện không phục vụ lợi ích của pháp nhân:
Người đại diện thực hiện các giao dịch mà không phục vụ lợi ích của pháp nhân, làm gây thiệt hại cho pháp nhân hoặc chủ sở hữu. Trong trường hợp này, người đại diện phải chịu trách nhiệm cá nhân về hành vi của mình.
Trường hợp 3: Trường hợp người đại diện thực hiện việc thanh toán nợ trước hạn:
Người đại diện thanh toán các nợ chưa đến hạn của pháp nhân, dẫn đến nguy cơ pháp nhân lâm vào tình trạng phá sản. Trong hoạt động quản lý của mình, người đại diện phải biết tình trạng tài chính của pháp nhân và không được thanh toán nợ trước hạn. Trường hợp này có thể làm phát sinh trách nhiệm dân sự cho người đại diện.
Trường hợp 4: Người đại diện giao kết hợp đồng chưa được phê duyệt:
Người đại diện tham gia giao kết hợp đồng mà không có sự phê duyệt của cơ quan có thẩm quyền của pháp nhân. Trong trường hợp này, giao dịch đó bị coi là vượt quá thẩm quyền và người đại diện phải chịu trách nhiệm dân sự.
Trường hợp 5: Người đại diện của công ty mẹ can thiệp vào hoạt động của công ty con:
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020, người đại diện của công ty mẹ chịu trách nhiệm nếu can thiệp vào hoạt động của công ty con. Trong trường hợp này, người đại diện của công ty mẹ phải chịu trách nhiệm đền bù thiệt hại cho công ty con.
TUYET NHUNG LAW cung cấp đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp và giàu kinh nghiệm xử lý các vụ án trên thực tế về vấn đề Dân sự như Hợp đồng; thừa kế; bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự nhân phẩm hoặc các vấn đề liên quan đến bồi thường ngoài hợp đồng…. Liên hệ tư vấn; đại diện uỷ quyền hoặc mời luật sư tham giao bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong các vụ án về Dân sự, vui lòng liên hệ số điện thoại hotline: 0975.982.169 hoặc gửi yêu cầu qua email: lienhe@tuyetnhunglaw.vn để được hỗ trợ kịp thời.