1. Quy định về người chưa thành niên?
Theo pháp luật quốc tế:
Công ước về Quyền trẻ em năm 1989 xác định rằng “Trẻ em là những người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có quy định tuổi thành niên sớm hơn cho trẻ em đó”.
Quy tắc của Liên Hợp Quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước tự do năm 1990 định nghĩa “Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi”.
Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên Hợp Quốc về hoạt động tư pháp đối với người chưa thành niên năm 1985 (Các quy tắc Bắc Kinh) nêu rõ rằng “Trẻ em hoặc thanh thiếu niên có thể bị xử lý khi phạm tội theo một phương thức khác với người lớn, tùy thuộc vào hệ thống pháp luật cụ thể”.
Độ tuổi xác định người chưa thành niên trên thế giới chưa có sự thống nhất ví dụ như:
Các quy định về độ tuổi của người chưa thành niên không đồng nhất giữa các quốc gia trên thế giới. Ví dụ, Úc, Ấn Độ, Philippines, Brazil, Croatia, Colombia, New Zealand xác định người dưới 18 tuổi là người chưa thành niên, trong khi Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan định người chưa thành niên là người dưới 20 tuổi. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) xác định lứa tuổi từ 10 – 17 tuổi là độ tuổi vị thành niên, trong khi Chương trình Sức khỏe sinh sản/Sức khỏe tình dục vị thành niên – thanh niên của Liên minh châu Âu (EU) và Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc lấy độ tuổi từ 10 – 17 tuổi. Do đó, có thể thấy rằng khái niệm và độ tuổi của người chưa thành niên vẫn chưa được thống nhất trên toàn cầu.
Theo Pháp luật Việt Nam:
Khái niệm về trẻ em và người chưa thành niên không hoàn toàn đồng nhất trong pháp luật quốc tế. Ví dụ, Luật trẻ em năm 2016 xác định trẻ em là những người dưới 16 tuổi, mặc dù đã có nhiều đề xuất về việc nâng độ tuổi này để phù hợp với các quy định quốc tế, song các nhà lập pháp vẫn giữ nguyên quy định hiện hành.
Trong các văn bản pháp luật của Việt Nam, khái niệm người chưa thành niên được sử dụng có sự khác biệt nhất định:
– Trong Bộ luật Dân sự 2015: Người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi (Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015).
– Trong Bộ luật Hình sự 2015, sử dụng cụm từ “người dưới 18 tuổi phạm tội”.
– Trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, lại sử dụng “người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi”.
2. Quy định về người chưa thành niên trong pháp luật Dân sự?
Để tham gia vào các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ dân sự nói riêng, người chưa thành có năng lực chủ thể. Năng lực chủ thể bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi:
Năng lực pháp luật dân sự:
Theo quy định của Điều 14 trong Bộ luật Dân sự, năng lực pháp luật dân sự của người chưa thành niên là khả năng của họ để thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự. Người chưa thành niên đều có năng lực pháp luật dân sự tương đương nhau, bắt đầu từ khi sinh ra và kết thúc khi qua đời.
– Người chưa thành niên có các quyền và nghĩa vụ dân sự sau đây:
+ Quyền nhân thân gắn liền với tài sản và không gắn liền với tài sản.
+ Quyền sở hữu, quyền thừa kế và các quyền khác đối với tài sản.
+ Quyền tham gia vào các quan hệ dân sự và phát sinh nghĩa vụ từ các quan hệ đó.
+ Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không bị hạn chế, trừ khi có quy định của pháp luật.
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân:
Theo Điều 17 của Bộ luật Dân sự, năng lực hành vi dân sự của người chưa thành là khả năng của họ để thông qua hành vi của mình xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự. Năng lực hành vi dân sự của người chưa thành không đồng đều, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tuổi tác và sức khỏe.
Người thành niên từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ khi mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật.
Người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi cần sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật khi xác lập và thực hiện giao dịch dân sự, trừ khi giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu hàng ngày phù hợp với tuổi độ hoặc có quy định khác của pháp luật.
Người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự cần sự đại diện theo pháp luật. Giao dịch dân sự của họ cũng cần sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ khi giao dịch đó phục vụ nhu cầu hàng ngày.
3. Quy định về người chưa thành niên trong lĩnh vực pháp luật hành chính?
Quy định về người chưa thành niên trong lĩnh vực pháp luật hành chính được thể hiện trong Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 đã được sửa đổi, bổ sung vào năm 2020 thông qua việc dành riêng một chương để điều chỉnh các hành vi vi phạm của nhóm này, từ Điều 133 đến Điều 140a.
Quá trình xử lý vi phạm hành chính của người chưa thành niên phải tuân theo các nguyên tắc sau:
– Chỉ áp dụng biện pháp phạt khi cần thiết nhằm mục đích giáo dục, hỗ trợ sửa đổi hành vi, phát triển tính cách lành mạnh và thúc đẩy trở thành công dân có ích cho cộng đồng.
– Xác định hình phạt dựa trên khả năng nhận thức của người chưa thành niên về tính chất nguy hại của hành vi đó đối với xã hội.
– Hình phạt áp dụng phải nhẹ hơn so với người thành niên có cùng hành vi vi phạm.
– Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vi phạm hành chính, không áp dụng hình phạt tiền.
– Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành chính: mức tiền phạt không vượt quá 1/2 mức tiền phạt áp dụng đối với người thành niên; buộc phải nộp một khoản tiền bằng 1/2 giá trị tang vật, phương tiện vi phạm hành chính vào ngân sách nhà nước theo quy định tại Điều 126 của Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012, đã được sửa đổi, bổ sung vào năm 2020. Trong trường hợp không có khả năng thanh toán hoặc không thể thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả, cha mẹ hoặc người giám hộ sẽ thực hiện thay mặt.
– Trong quá trình xử lý, các thông tin riêng tư của người chưa thành niên phải được tôn trọng và bảo vệ.
– Các biện pháp thay thế cho xử lý vi phạm hành chính phải được xem xét áp dụng khi có đủ điều kiện.
4. Quy định về người chưa thành niên trong lĩnh vực pháp luật lao động?
Tuổi lao động tối thiểu của người lao động là từ đủ 15 tuổi, trừ khi có quy định khác của pháp luật. Đối với người chưa thành niên:
– Lao động chưa thành niên là những người chưa đủ 18 tuổi.
– Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không được làm việc hoặc làm việc ở nơi làm việc quy định tại Điều 147 của Bộ luật Lao động 2019.
– Người từ đủ 13 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi chỉ được làm các công việc nhẹ theo danh mục do Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành.
Các công việc nhẹ mà người từ đủ 13 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi được làm bao gồm: Biểu diễn nghệ thuật; Thể thao; Lập trình phần mềm; Các nghề truyền thống như chấm men gốm, cưa vỏ trai, làm giấy dó, làm nón lá, chấm nón, dệt chiếu, làm trống, dệt thổ cẩm, thêu thổ cẩm, làm bún gạo, làm miến, làm giá đỗ, làm bánh đa, dệt tơ tằm, se sợi hoa sen, vẽ tranh sơn mài, se nhang, làm vàng mã (trừ các công đoạn có sử dụng hóa chất độc hại như sơn ta, hóa chất tẩy rửa, hóa chất dùng để ướp màu, hóa chất tạo mùi, tạo tàn nhang cong…); Các nghề thủ công mỹ nghệ như thêu ren, mộc mỹ nghệ, làm lược sừng, làm tranh dân gian, nặn tò he, làm tranh khắc gỗ, biểu tranh lũ, nhặt vỏ sò, điệp để gắn trên tranh mỹ nghệ, mài đánh bóng tranh mỹ nghệ, xâu chuỗi tràng hạt kết cườm, đánh bóng tranh mỹ nghệ, xâu chuỗi hạt kết cườm, đánh bóng trang sức mỹ nghệ, làm rối búp bê, làm thiếp mừng các sản phẩm từ giấy nghệ thuật trang trí trên thiếp mừng, làm khung tranh mô hình giấy, hộp giấy, túi giấy; Đan lát, làm đồ gia dụng, đồ thủ công mỹ nghệ từ nguyên liệu tự nhiên như mây, tre, nứa, dừa, chuối, bèo lục bình, day, cói, quế, guột, đót, lá nón Gói nem, gói kẹo, gói bánh (trừ việc vận hành hoặc sử dụng các máy, thiết bị, dụng cụ đóng gói); Nuôi tằm; Làm vườn rau sạch, thu hoạch rau, củ, quả sạch theo mùa; Chăn nuôi gia súc tại nông trại; Phụ gỡ lưới cá, đan lưới cá, phơi khô thủy sản; Cắt chỉ, đơm nút, thùa khuyết, đóng gói vào hộp các sản phẩm dệt thủ công.
TUYET NHUNG LAW cung cấp đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp và giàu kinh nghiệm xử lý các vụ án trên thực tế. Liên hệ tư vấn hoặc mời luật sư tham giao bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp vui lòng liên hệ số điện thoại hotline: 0975.982.169 hoặc gửi yêu cầu qua email: buinhunglw2b@gmail.com để được hỗ trợ.