1. Quy định về quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú?
Quy định tại Điều 65 Bộ Luật Dân sự 2015 đề cập đến việc quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú khi người này đáp ứng đủ điều kiện và có yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan tới Tòa án. Việc này mang ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân biệt tích cũng như của những người liên quan. Bằng cách này, việc quản lý tài sản sẽ giữ vững giá trị của chúng, ngăn ngừa mọi mất mát và thiệt hại có thể xảy ra.
Theo quyết định của Tòa án, những người sau đây được phân công quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú:
+ Người đang đảm nhận vai trò quản lý tài sản (theo sự ủy quyền của chính người bị xác định là vắng mặt tại nơi cư trú trước khi họ biệt tích);
+ Người cùng là chủ sở hữu tài sản với người vắng mặt (quản lý tài sản chung);
+ Vợ hoặc chồng đang quản lý tài sản trước khi người vắng mặt biệt tích;
+ Con thành niên hoặc cha mẹ của người vắng mặt (trong trường hợp vợ hoặc chồng đang quản lý tài sản nhưng gặp các tình huống như: qua đời, mất khả năng hành vi dân sự, khó khăn trong nhận thức, quản lý hành vi, hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự).
Nếu không có ai phù hợp trong các trường hợp trên, Tòa án có thể chỉ định người thân thích hoặc một người khác quản lý tài sản của người vắng mặt.
Như vậy, có thể thấy Điều 65 Bộ Luật Dân sự năm 2015 kế thừa đầy đủ quy định tại Điều 75 Bộ Luật Dân sự năm 2005, bổ sung thêm về tình trạng khó khăn trong nhận thức và quản lý hành vi của người đang quản lý tài sản, phù hợp với quy định về người gặp khó khăn trong nhận thức và quản lý hành vi đã được thêm mới trong Bộ Luật Dân sự năm 2015.
Ảnh minh hoạ
2. Quyền của người quản lý tài sản?
Quy định tại Điều 67 của Bộ Luật Dân sự năm 2015 điều chỉnh rõ về quyền của người quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú như sau:
“1. Quản lý tài sản của người vắng mặt.
Trích một phần tài sản của người vắng mặt để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, nghĩa vụ thanh toán đến hạn, nghĩa vụ tài chính khác của người vắng mặt.
Được thanh toán các chi phí cần thiết trong việc quản lý tài sản của người vắng mặt.”
Theo đó, người quản lý có ba nhóm quyền sau:
Thứ nhất, người quản lý được quyền quản lý tài sản của người vắng mặt. Chính tên gọi pháp lý của chủ thể này đã xác định rõ ràng quyền cơ bản của họ là thực hiện việc quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú. Theo quy định của luật, người quản lý sẽ thực hiện các xử sự, hành vi phù hợp để đảm bảo tài sản trong phạm vi kiểm soát của mình và giữ gìn tài sản vẹn toàn về giá trị.
Thứ hai, người quản lý được quyền trích một phần tài sản của người vắng mặt để thực hiện các nghĩa vụ cấp dưỡng, thanh toán nợ đến hạn, và các nghĩa vụ tài chính khác của người vắng mặt. Kết hợp với quy định tại Điều 66 và Điều 67, đây là quyền và nghĩa vụ của người quản lý. Trong những trường hợp cần thiết, theo yêu cầu hoặc ý chí của chính họ, họ cũng được phép trích một phần tài sản mà họ đang quản lý để thực hiện các nghĩa vụ này.
Thứ ba, người quản lý được thanh toán các chi phí cần thiết trong việc quản lý tài sản của người vắng mặt. Để thực hiện việc quản lý tài sản, các chủ thể này cũng mất những công sức nhất định và các chi phí để đảm bảo cho sự tồn tại và vẹn nguyên của tài sản. Do đó, họ cần được thanh toán các chi phí cần thiết để thực hiện việc quản lý tài sản.
Tóm lại, đối với tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú, người được ủy quyền, chủ sở hữu chung, vợ hoặc chồng hoặc người thân thích có nhiệm vụ và quyền lợi phải bảo quản và đảm bảo tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú theo quy định của Luật và có nhiệm vụ trả lại tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú khi họ quay trở lại.
3. Nghĩa vụ của người quản lý tài sản?
Điều 66 của Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định về nghĩa vụ của người quản lý tài sản (xác định theo Điều 55). Theo đó, có bốn nhóm nghĩa vụ đối với người quản lý:
Thứ nhất, người quản lý phải giữ gìn, bảo quản tài sản của người vắng mặt như tài sản của chính mình. Nghĩa vụ này đòi hỏi sự tận tâm và ý thức trách nhiệm của người quản lý, nhằm đảm bảo tài sản không bị tổn hại trong thời gian người vắng mặt.
Thứ hai, bán ngay tài sản là hoa màu, sản phẩm khác có nguy cơ bị hư hỏng: người quản lý phải bán ngay tài sản là hoa màu, sản phẩm khác có nguy cơ bị hư hỏng để giữ được giá trị của tài sản và tránh thiệt hại cho người vắng mặt.
Thứ tư, giao lại tài sản cho người vắng mặt khi họ trở về và phải thông báo cho Tòa án biết. Nếu có lỗi trong việc quản lý tài sản gây thiệt hại, người quản lý phải bồi thường.
4. Điều kiện yêu cầu toà án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú?
Khi một người vắng mặt tại nơi cư trú trong thời gian dài mà không ai biết về tung tích của họ, sẽ phát sinh nhiều vấn đề cần giải quyết, liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người biệt tích hoặc những người khác có liên quan, như: quản lý tài sản của người biệt tích, giải quyết các quan hệ dân sự giữa người biệt tích với những người khác, và những vấn đề khác. Do đó, Bộ Luật Dân sự năm 2015 đã có quy định về thủ tục tìm kiếm và quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú. Tuy nhiên, trình tự và thủ tục cụ thể về việc giải quyết yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú mới chỉ được quy định lần đầu tiên trong Bộ Luật Tố Tụng Dân sự hiện hành (từ Điều 381 đến Điều 386).
Tại Điều 64 của Bộ Luật Dân sự năm 2015, có quy định về yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài sản của họ như sau: Khi một người biệt tích trong vòng 6 tháng liền trở lên, những người có liên quan đến quyền và lợi ích có thể yêu cầu Tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự và có thể yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú quy định tại Điều 65 của Bộ luật này.
Đơn yêu cầu tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú phải bao gồm các nội dung như một đơn yêu cầu thông báo nói chung quy định tại Khoản 2 của Điều 362 Bộ Luật Tố Tụng Dân sự 2015, trong đó nêu rõ yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt là ai; họ, tên, nơi cư trú của người đó; yêu cầu quản lý tài sản của người vắng mặt (nếu có); lí do, mục đích và các căn cứ chứng minh cho yêu cầu này.
Gửi kèm theo đơn yêu cầu tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú phải có chứng cứ, tài liệu để chứng minh là người đó biệt tích trong hơn 6 tháng như: xác nhận của cơ quan quản lý hộ khẩu, của những người sống cùng với người đó trước khi vắng mặt, của người láng giềng, của tổ dân phố, và thời gian không nhận được tin tức của họ. Trong trường hợp có yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người vắng mặt thì cũng cần cung cấp tài liệu về số lượng, loại hình, đặc điểm của tài sản của người đó, việc quản lý tài sản hiện tại và danh sách những người thân thích của người đó.
Do đó, khi biệt tích kéo dài 6 tháng trở lên, có thể yêu cầu Tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú.
Tham khảo bài viết về cách xác định nơi cư trú: Nơi cư trú của cá nhân được xác định như thế nào?
TUYET NHUNG LAW cung cấp đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp và giàu kinh nghiệm xử lý các vụ án trên thực tế về vấn đề Dân sự như Hợp đồng, thừa kế,…. Liên hệ tư vấn hoặc mời luật sư tham giao bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong các vụ án Dân sự, vui lòng liên hệ số điện thoại hotline: 0975.982.169 hoặc gửi yêu cầu qua email: lienhe@tuyetnhunglaw.vn để được hỗ trợ.