Quyền định đoạt là gì?
Bài viết này đề cập đến nội dung pháp lý liên quan đến quyền định đoạt là gì? Ngoài ra cung cấp thêm các quyền khác đối với tài sản theo quy định pháp luật dân sự dùng vào mục đích tham khảo.
1. Quyền chiếm hữu là gì?
Theo Bộ luật Dân sự 2015, chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản. Chiếm hữu bao gồm chiếm hữu của chủ sở hữu và chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu. Việc chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu không thể là căn cứ xác lập quyền sở hữu, trừ trường hợp quy định tại các điều 228, 229, 230, 231, 232, 233 và 236 Bộ luật Dân sự 2015. Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật.
Theo Bộ luật Dân sự 2015, quyền chiếm hữu của chủ sở hữu được quy định như sau:
Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, chi phối tài sản của mình nhưng không được vi phạm pháp luật, đạo đức xã hội.
Chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu. Chiếm hữu không ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu biết hoặc phải biết rằng mình không có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu.
Chiếm hữu liên tục là việc chiếm hữu được thực hiện trong một khoảng thời gian mà không có tranh chấp về quyền đối với tài sản đó hoặc có tranh chấp nhưng chưa được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác, kể cả khi tài sản được giao cho người khác chiếm hữu. Việc chiếm hữu không liên tục không được coi là căn cứ để suy đoán về tình trạng và quyền của người chiếm hữu được quy định tại Điều 184 Bộ luật Dân sự 2015.
Chiếm hữu công khai là việc chiếm hữu được thực hiện một cách minh bạch, không giấu giếm; tài sản đang chiếm hữu được sử dụng theo tính năng, công dụng và được người chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như tài sản của chính mình. Việc chiếm hữu không công khai không được coi là căn cứ để suy đoán về tình trạng và quyền của người chiếm hữu được quy định tại Điều 184 Bộ luật Dân sự 2015.
Suy đoán về tình trạng và quyền của người chiếm hữu theo quy định tại Điều 184 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
Người chiếm hữu được suy đoán là ngay tình; người nào cho rằng người chiếm hữu không ngay tình thì phải chứng minh. Trường hợp có tranh chấp về quyền đối với tài sản thì người chiếm hữu được suy đoán là người có quyền đó. Người có tranh chấp với người chiếm hữu phải chứng minh về việc người chiếm hữu không có quyền.
Người chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai được áp dụng thời hiệu hưởng quyền và được hưởng hoa lợi, lợi tức mà tài sản mang lại theo quy định Bộ luật Dân sự 2015 và luật khác có liên quan.
Bảo vệ việc chiếm hữu theo quy định tại khoản 1 Điều 165 Bộ luật Dân sự 2015 là việc chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.
2. Quyền sử dụng là gì?
Theo quy định tại Điều 189 đến Điều 191 Bộ luật dân sự 2015 quy định về quyền sử dụng như sau:
Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng và tận dụng các lợi ích vật chất của tài sản trong phạm vi pháp luật cho phép. Nguyên tắc chung là việc tận dụng các giá trị sử dụng của tài sản để đáp ứng nhu cầu về sinh hoạt vật chất hoặc tinh thần của bản thân.
Thực hiện quyền sử dụng còn bao gồm việc sử dụng các tính năng của vật để khai thác các lợi ích vật chất của chúng, đáp ứng các nhu cầu trong sản xuất, kinh doanh.
Ngoài ra, việc khai thác các lợi ích vật chất của tài sản còn bao gồm việc thu nhận các kết quả mà tài sản tự nhiên mang lại như thu hoạch trứng từ gia cầm, quả từ cây trồng, con vật nuôi nhỏ do mẹ chúng sinh ra…
Do đó, việc sử dụng tài sản là một trong những quyền lực quan trọng và có ý nghĩa thực tiễn của chủ sở hữu. Chủ sở hữu có toàn quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức của tài sản theo ý chí của mình. Thông thường, chủ sở hữu sử dụng tài sản của mình trực tiếp nhưng cũng có thể chuyển giao cho người khác dựa trên một hợp đồng hợp pháp của chủ sở hữu.
Trong những trường hợp khác được quy định bởi pháp luật, cơ quan hoặc tổ chức cũng có quyền sử dụng tài sản dựa trên một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Ảnh minh hoạ
3. Quyền định đoạt là gì?
Điều 192 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Quyền định đoạt là quyền chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu huỷ tài sản”. Pháp luật cho phép cá nhân, bao gồm cả chủ sở hữu và không phải chủ sở hữu, có quyền định đoạt đối với tài sản, tuy nhiên để có quyền này, phải đáp ứng các điều kiện về năng lực hành vi và tuân thủ các thủ tục quy định bởi pháp luật. Về năng lực hành vi, việc định đoạt tài sản phải được thực hiện bởi người có năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật. Về các trình tự, thủ tục, trong trường hợp có quy định về trình tự, thủ tục định đoạt tài sản, phải tuân thủ theo các quy định đó.
Điều 194 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định quyền định đoạt đối với chủ sở hữu như sau: “Chủ sở hữu có quyền bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng, tiêu huỷ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật đối với tài sản”.
Điều 195 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định quyền định đoạt đối với người không phải là chủ sở hữu như sau: “Người không phải là chủ sở hữu tài sản chỉ có quyền định đoạt tài sản theo uỷ quyền của chủ sở hữu hoặc theo quy định của luật”.
4. Quyền khác đối với tài sản trong pháp luật dân sự?
Quyền đối với bất động sản liền kề: Là quyền được thực hiện trên một bất động sản (gọi là bất động sản hưởng quyền) nhằm phục vụ cho việc khai thác một bất động sản khác thuộc quyền sở hữu của người khác (gọi là bất động sản hưởng quyền), theo quy định tại Điều 245 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trong các Bộ luật dân sự cũ tại Việt Nam, quyền này từ trước được ghi nhận và gọi là “quyền địa dịch” hay còn gọi là “dịch quyền”. Đó cũng là những quy định của pháp luật dân sự về quyền sử dụng hạn chế bất động sản, bao gồm quyền đặt đường ống cấp, thoát nước, quyền sử dụng lối dẫn nước trong canh tác để phục vụ tưới tiêu.
Hiện nay, Bộ luật Dân sự không sử dụng thuật ngữ “địa dịch” mà sử dụng khái niệm “quyền đối với bất động sản liền kề”. Quyền này bao gồm các quyền sau: quyền về lối đi qua, quyền mắc đường dây tải điện, đường dây thông tin liên lạc, quyền cấp thoát nước, quyền về nước tưới, tiêu nước.
Ngoài ra, người chiếm hữu bất hợp pháp được pháp luật bảo vệ trong trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu. Trường hợp tài sản đã được giao dịch cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch đó vẫn có hiệu lực. Người thứ ba có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại từ người đã xác lập giao dịch với mình hoặc phải trả lại tài sản cho người có quyền nhận tài sản đó.
Quyền sở hữu đối với mốc giới ngăn cách bất động sản cũng được bảo hộ theo pháp luật. Quyền này có thể là quyền sở hữu chung nếu được xây dựng hoặc tạo lập trên đất thuộc quyền sử dụng chung. Trường hợp mốc giới là tường nhà chung, các chủ sở hữu bất động sản liền kề không được phép đục tường để đặt kết cấu xây dựng mà phải có thỏa thuận và đồng ý của các bên.
Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề có thể bị chấm dứt khi các chủ sở hữu hợp nhất lại hoặc không còn có nhu cầu sử dụng hạn chế bất động sản liền kề.
Chủ sở hữu có quyền sở hữu tài sản và phải đảm bảo rằng quyền sử dụng tài sản của họ không làm ảnh hưởng đến các chủ sở hữu bất động sản liền kề và các chủ thể xung quanh, bao gồm cả việc thoát nước mưa và nước, theo quy định tại Điều 250 và 251 của Bộ luật Dân sự.
Quyền hưởng dụng: Đối với tài sản, trong các mối quan hệ xã hội, có những chủ thể chỉ hướng tới nhu cầu được khai thác, hưởng hoa lợi, lợi tức từ di sản thay vì xác lập quyền sở hữu với tài sản. BLDS năm 2015 lần đầu tiên ghi nhận tại Điều 257 về khái niệm quyền hưởng dụng như sau: “Quyền hưởng dụng là quyền của chủ thể được khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác trong một thời hạn nhất định”.
Trong cuộc sống, có nhiều trường hợp tài sản thuộc sở hữu của một chủ thể nhưng việc hưởng lợi ích từ việc khai thác tài sản đó lại thuộc quyền của chủ thể khác. Ví dụ: Cha mẹ già muốn sang tên, chuyển quyền sở hữu nhà cho con để tránh những tranh chấp sau khi cha mẹ mất nhưng vẫn muốn được thu tiền cho thuê nhà để đảm bảo có nguồn thu nhập, sinh sống.
Về căn cứ phát sinh quyền hưởng dụng, Điều 258 BLDS năm 2015 quy định: “Quyền hưởng dụng được xác lập theo quy định của luật, theo thỏa thuận hoặc theo di chúc”. Như vậy, quyền hưởng dụng có thể phát sinh căn cứ vào quy định của luật, thỏa thuận của các bên hoặc di chúc của người chủ sở hữu tài sản.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, quyền hưởng dụng phát sinh theo quy định của luật chưa có căn cứ trong văn bản pháp luật. Trước đây, trong cổ luật, có thể thấy các trường hợp tương tự được xác lập cho cha mẹ già được quyền sử dụng nhà thuộc sở hữu của con hoặc con chưa thành niên được quyền ở nhà của cha mẹ. Thông thường, các trường hợp phát sinh quyền hưởng dụng theo quy định của pháp luật được hình thành trên yêu cầu cần đảm bảo quyền lợi của một số chủ thể cần được bảo vệ (như người nhà, trẻ nhỏ, người tàn tật…).
Trong các căn cứ phát sinh quyền hưởng dụng, thỏa thuận và di chúc là những căn cứ phổ biến. Theo đó, chủ sở hữu có thể bằng ý chí của mình xác lập hợp đồng với người được quyền hưởng dụng hoặc lập di chúc trao quyền sở hữu tài sản và để lại quyền hưởng dụng cho những người khác nhau được chủ sở hữu lựa chọn.
Về hiệu lực và thời hạn của quyền hưởng dụng. Quyền hưởng dụng được xác lập cho người có quyền hưởng dụng căn cứ trên thực tế họ đã nhận chuyển giao tài sản. Có nghĩa là kể từ thời điểm người này nhận chuyển giao tài sản, họ có quyền được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức đối với tài sản đó. Tuy nhiên, nếu luật liên quan có quy định khác hoặc các bên có thỏa thuận khác, quyền hưởng dụng sẽ được xác lập theo thời điểm được luật quy định hoặc thời điểm các bên thỏa thuận mà không căn cứ vào thời điểm nhận chuyển giao tài sản.
Với tính chất tuyệt đối của một vật quyền, kể từ thời điểm quyền hưởng dụng phát sinh hiệu lực, quyền hưởng dụng sẽ được bảo vệ, tôn trọng và có giá trị đối kháng với các chủ thể khác trong xã hội. Thời điểm quyền hưởng dụng có hiệu lực được xác định theo thời điểm xác lập, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.
Thời hạn của quyền hưởng dụng do các bên thỏa thuận hoặc do luật quy định nhưng tối đa đến hết cuộc đời của người hưởng dụng đầu tiên nếu người hưởng dụng là cá nhân và đến khi pháp nhân chấm dứt tồn tại nhưng tối đa là 30 năm nếu người hưởng dụng đầu tiên là pháp nhân. Trường hợp một người được hưởng dụng suốt đời nhưng cho phép người khác khai thác, sử dụng đối tượng của quyền hưởng dụng thì thời hạn tối đa thực hiện quyền khai thác, sử dụng kết thúc khi người hưởng dụng đầu tiên chết.
Đối với pháp nhân khi được hưởng dụng đến khi giải thể hoặc 50 năm… nhưng sau đó cho phép pháp nhân khác khai thác, sử dụng đối tượng của quyền hưởng dụng thì thời hạn tối đa mà pháp nhân thứ hai khai thác, sử dụng là không quá 30 năm tính từ thời điểm pháp nhân đầu tiên bắt đầu hưởng dụng.
Về nội dung của quyền hưởng dụng. Điều 261 BLDS năm 2015 quy định, người hưởng dụng có các quyền sau: “1. Tự mình hoặc cho phép người khác khai thác, sử dụng, thu hoa lợi, lợi tức từ đối tượng của quyền hưởng dụng; 2. Yêu cầu chủ sở hữu tài sản thực hiện nghĩa vụ sửa chữa đối với tài sản; 3. Cho thuê quyền hưởng dụng đối với tài sản”.
Như vậy, xuất phát từ bản chất vật quyền của quyền hưởng dụng, sự phân tách một phần nội dung của quyền sở hữu đối với tài sản, đó là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức…, chủ thể quyền hưởng dụng có.
Quyền bề mặt: Là một vật quyền được xác lập trên tài sản của người khác. Theo Điều 267 Bộ luật Dân sự năm 2015, quyền bề mặt là quyền của một chủ thể đối với mặt đất, mặt nước, và không gian trên và bên trong mặt đất, mặt nước và lòng đất mà quyền sử dụng đất đó thuộc về chủ thể khác. Quyền bề mặt phát sinh từ quyền sở hữu, cho phép chủ thể không phải là chủ sở hữu thực hiện khai thác và sử dụng tài sản. Điều đặc biệt của quyền này là nó chỉ áp dụng đối với quyền sử dụng đất đối với mặt đất, mặt nước, với phạm vi là không gian bên trên và bên trong của các đối tượng này.
Về hiệu lực và thời hạn của quyền bề mặt, quyền này được xác lập cho người có quyền từ thời điểm chủ thể có quyền sử dụng đất chuyển giao mặt đất, mặt nước, khoảng không gian trên mặt đất, mặt nước và lòng đất cho người có quyền bề mặt. Thời điểm này được xem là thời điểm quyền bề mặt có hiệu lực. Tức là từ khi chủ sở hữu chuyển giao tài sản, người có quyền bề mặt được quyền khai thác, hưởng lợi, thu nhập và các quyền khác đối với tài sản đó. Tuy nhiên, nếu có quy định khác trong luật liên quan hoặc thỏa thuận khác, quyền bề mặt sẽ được xác lập theo thời điểm do luật quy định hoặc thỏa thuận giữa các bên, không phải dựa trên thời điểm chuyển giao tài sản.
Với tính chất tuyệt đối của một vật quyền, từ thời điểm quyền bề mặt phát sinh hiệu lực, quyền này sẽ được bảo vệ, tôn trọng và có giá trị đối kháng với các chủ thể khác trong xã hội. Theo Điều 270 Bộ luật Dân sự năm 2015, thời hạn của quyền bề mặt được xác định theo quy định của luật, thỏa thuận hoặc di chúc, nhưng không thể vượt quá thời hạn của quyền sử dụng đất.
Trường hợp thời hạn của quyền bề mặt không được xác định theo căn cứ nào (không có thỏa thuận, di chúc không quy định…), người có quyền bề mặt hoặc người có quyền sử dụng đất có thể chấm dứt quyền bề mặt bất cứ lúc nào với điều kiện phải thông báo bằng văn bản cho bên kia trước ít nhất 06 tháng.
Về nội dung của quyền bề mặt, theo Điều 271 Bộ luật Dân sự năm 2015, khi có quyền bề mặt, chủ thể có quyền khai thác, sử dụng mặt đất, mặt nước, và không gian trên mặt đất, mặt nước và lòng đất để xây dựng công trình, trồng cây, canh tác. Trong khi thực hiện quyền này, người có quyền bề mặt phải đảm bảo các hoạt động không vi phạm quy định của Bộ luật Dân sự, pháp luật về đất đai, xây dựng, quy hoạch, tài nguyên, khoáng sản và các quy định khác liên quan. Nếu các hoạt động này dẫn đến việc tạo ra tài sản, người có quyền bề mặt sẽ được xác lập quyền sở hữu đối với các tài sản đó. Trong trường hợp quyền bề mặt được chuyển giao một phần hoặc toàn bộ, chủ thể nhận chuyển giao được kế thừa quyền bề mặt theo điều kiện và phạm vi tương ứng với phần quyền bề mặt được chuyển giao.
Quyền bề mặt có thể chấm dứt theo một trong các căn cứ quy định tại Điều 172 Bộ luật Dân sự, bao gồm: (i) Thời hạn của quyền bề mặt đã hết; (ii) Chủ thể có quyền bề mặt và chủ thể có quyền sử dụng đất là một; (iii) Chủ thể có quyền bề mặt từ bỏ quyền của mình; (iv) Quyền sử dụng đất có quyền bề mặt bị thu hồi theo quy định của Luật Đất đai; (v) Theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật.
Tương tự như quyền hưởng dụng, do quyền bề mặt là quyền được xác lập trên tài sản thuộc sở hữu của người khác, do đó, quyền này chỉ có hiệu lực trong một khoảng thời gian hữu hạn; hết thời gian này, chủ thể của quyền bề mặt sẽ chấm dứt các quyền khai thác bề mặt của mình. Ngoài ra, quyền bề mặt cũng có thể chấm dứt trước thời hạn theo ý chí của chủ thể có quyền bề mặt, chủ thể có quyền sử dụng đất (ví dụ như người có quyền bề mặt không có nhu cầu khai thác bề mặt và từ bỏ quyền, hoặc người có quyền bề mặt và chủ sở hữu đồng ý chấm dứt quyền bề mặt) hoặc khi quyền bề mặt không thể khai thác nữa do quyền sử dụng đất đã bị thu hồi.
Trên thực tế, người sử dụng đất có thể chuyển giao toàn bộ quyền của mình cho người có quyền bề mặt theo di chúc hoặc hợp đồng. Vì cả quyền sử dụng đất và quyền bề mặt đều thuộc về một chủ thể, do đó, quyền bề mặt cũng đương nhiên chấm dứt. Khi quyền bề mặt chấm dứt, người có quyền bề mặt phải trả lại mặt đất, mặt nước, và không gian trên mặt đất, mặt nước và lòng đất cho chủ thể có quyền sử dụng đất. Các quyền sở hữu của họ trên bề mặt phải được xử lý trước khi quyền bề mặt chấm dứt. Nếu người có quyền bề mặt không xử lý tài sản này, các tài sản sẽ thuộc sở hữu của người có quyền sử dụng đất, hoặc họ sẽ được thanh toán chi phí xử lý tài sản thay cho người có quyền bề mặt.
TUYET NHUNG LAW cung cấp đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp và giàu kinh nghiệm xử lý các vụ án trên thực tế trong lĩnh vực dân sự. Liên hệ tư vấn, mời luật sư tham giao bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong các vụ án liên quan đến vấn đề dân sự tại Toà án. Vui lòng liên hệ số điện thoại hotline: 0975.982.169 hoặc gửi yêu cầu qua email: lienhe@tuyetnhunglaw.vn để được hỗ trợ.