Quyền nhân thân gồm những quyền gì?
1. Quyền nhân thân gồm những quyền gì?
Thuật ngữ “quyền nhân thân” là một khái niệm pháp lý, lần đầu tiên được đề cập trong Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 1995, nó ra đời với ý nghĩa là một cơ sở pháp lý để bảo vệ sự tồn tại của cá nhân với tư cách là một thực thể độc lập trong cộng đồng. BLDS năm 1995 cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp 1992 về quyền con người về dân sự, xác định quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ khi có quy định khác của pháp luật. Đây được coi là một bước đổi mới quan trọng trong tư duy và nhận thức của các nhà lập pháp Việt Nam, là một bước tiến đáng chú ý, mở ra nền tảng cho việc phát triển quy định về quyền nhân thân trong hệ thống pháp luật dân sự của Việt Nam.
Hiện nay, về khái niệm quyền nhân thân, trong pháp luật và các công trình nghiên cứu khoa học, vẫn chưa có định nghĩa thống nhất. Dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, các nhà lập pháp và nhà nghiên cứu luật học đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm này.
Theo quy định của khoản 1 Điều 25 Bộ luật Dân sự 2015, quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ khi có quy định khác của luật liên quan.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc xác lập và thực hiện các quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân phải thông qua người đại diện theo quy định của pháp luật của người đó.
Cụ thể, theo khoản 2 của Điều 25 Bộ luật Dân sự 2015:
Đối với quyền nhân thân của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, việc xác lập và thực hiện các quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân phải được người đại diện theo pháp luật của người này đồng ý, theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, hoặc theo quyết định của Tòa án.
Đối với quyền nhân thân của người bị tuyên bố mất tích hoặc người đã qua đời, việc xác lập và thực hiện các quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân phải được sự đồng ý của vợ, chồng hoặc con thành niên của người đó. Trong trường hợp không có những người này, việc đó phải được sự đồng ý của cha mẹ, trừ khi có quy định khác của Bộ luật Dân sự 2015 hoặc luật liên quan.
2. Các quyền nhân thân cơ bản?
2.1. Quyền có họ, tên
Quyền có họ và tên được quy định tại Điều 26 của Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
Mọi cá nhân đều có quyền sở hữu họ và tên (bao gồm cả chữ đệm, nếu có). Họ và tên của một người được xác định dựa trên họ và tên được ghi trong giấy khai sinh của người đó.
Họ của cá nhân được xác định theo họ của cha hoặc mẹ theo thỏa thuận của hai người; nếu không có thỏa thuận, họ của con sẽ được xác định theo phong tục thường quy.
Trong trường hợp cha hoặc mẹ không được xác định, họ của con sẽ được xác định theo họ của người mẹ.
Nếu trẻ em bị bỏ rơi và không có cha hoặc mẹ được xác định và trẻ được nhận nuôi, họ của trẻ sẽ được xác định theo họ của cha hoặc mẹ nuôi theo thỏa thuận của hai bên. Trong trường hợp chỉ có một phía là cha hoặc mẹ nuôi, họ của trẻ sẽ được xác định theo họ của người đó.
Trong trường hợp trẻ em bị bỏ rơi và không có cha hoặc mẹ được xác định và chưa được nhận nuôi, họ của trẻ sẽ được xác định dựa trên đề nghị của người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng hoặc đề nghị của người đăng ký khai sinh cho trẻ, nếu trẻ đang được người đó tạm thời nuôi dưỡng.
Cha hoặc mẹ được xác định theo Bộ luật Dân sự 2015 là cha hoặc mẹ dựa trên sự kiện sinh.
Việc đặt tên bị hạn chế trong trường hợp làm tổn thương đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác hoặc trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật Dân sự 2015.
Tên của công dân Việt Nam phải viết bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc khác trong Việt Nam; không được sử dụng số hoặc ký tự đơn ngoài chữ.
Mỗi cá nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự dựa trên họ và tên của mình.
Việc sử dụng biệt danh, tên giả không được gây ra thiệt hại cho quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
2.2. Quyền thay đổi họ
Quyền thay đổi họ được quy định trong Điều 27 của Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
Cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thay đổi họ trong các trường hợp sau:
– Thay đổi họ cho con từ họ của cha đến họ của mẹ hoặc ngược lại;
– Thay đổi họ cho con nuôi từ họ của cha hoặc mẹ đến họ của cha hoặc mẹ nuôi theo yêu cầu của cha hoặc mẹ nuôi;
– Khi người con nuôi không còn làm con nuôi và cha hoặc mẹ yêu cầu lấy lại họ cho người đó theo họ của cha hoặc mẹ;
– Thay đổi họ cho con theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc con khi cha, mẹ được xác định;
– Thay đổi họ của người bị lưu lạc đã xác định được nguồn gốc huyết thống của mình;
– Thay đổi họ theo họ của vợ hoặc chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài để phù hợp với pháp luật của quốc gia mà vợ hoặc chồng người nước ngoài là công dân hoặc lấy lại họ trước khi thay đổi;
– Thay đổi họ của con khi cha hoặc mẹ thay đổi họ;
– Trường hợp khác do pháp luật về quốc tịch quy định.
Lưu ý: Việc thay đổi họ cho người từ đủ chín tuổi trở lên phải có sự đồng ý của người đó.
Việc thay đổi họ của cá nhân không ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ dân sự đã được xác lập theo họ cũ.
2.3. Quyền thay đổi tên
Quyền thay đổi tên được quy định trong Điều 28 của Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
– Cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thay đổi tên trong các trường hợp sau đây:
– Theo yêu cầu của người có tên mà việc sử dụng tên đó gây nhầm lẫn, ảnh hưởng đến tình cảm gia đình, danh dự, quyền, lợi ích hợp pháp của người đó;
– Theo yêu cầu của cha nuôi, mẹ nuôi về việc thay đổi tên cho con nuôi hoặc khi người con nuôi không còn làm con nuôi và cha hoặc mẹ yêu cầu lấy lại tên mà cha hoặc mẹ đã đặt;
– Theo yêu cầu của cha hoặc mẹ hoặc người con khi cha hoặc mẹ đã được xác định;
– Thay đổi tên của người bị lưu lạc đã xác định được nguồn gốc huyết thống của mình;
– Thay đổi tên của vợ hoặc chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài để phù hợp với pháp luật của quốc gia mà vợ hoặc chồng người nước ngoài là công dân hoặc lấy lại tên trước khi thay đổi;
– Thay đổi tên của người đã xác định lại giới tính, người đã chuyển đổi giới tính;
– Trường hợp khác do pháp luật về quốc tịch quy định.
– Việc thay đổi tên cho người từ đủ chín tuổi trở lên phải có sự đồng ý của người đó.
– Việc thay đổi tên của cá nhân không ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ dân sự đã được xác lập theo tên cũ.
2.4. Quyền xác định, xác định lại dân tộc
Quyền xác định, xác định lại dân tộc được quy định trong Điều 29 của Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
– Cá nhân có quyền tự xác định, xác định lại dân tộc của mình.
– Dân tộc của cá nhân khi sinh ra được xác định theo dân tộc của cha đẻ và mẹ đẻ. Trong trường hợp cha đẻ và mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau, dân tộc của con được xác định theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ theo thỏa thuận của họ; nếu không có thỏa thuận, dân tộc của con sẽ được xác định theo tập quán; nếu tập quán khác nhau, dân tộc của con sẽ được xác định theo tập quán của dân tộc ít người hơn.
– Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và được nhận làm con nuôi, dân tộc của trẻ em sẽ được xác định theo dân tộc của cha nuôi hoặc mẹ nuôi theo thỏa thuận của họ. Nếu chỉ có cha nuôi hoặc mẹ nuôi, dân tộc của trẻ em sẽ được xác định theo dân tộc của người đó.
– Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và chưa được nhận làm con nuôi, dân tộc của trẻ em sẽ được xác định theo đề nghị của người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng trẻ em hoặc theo đề nghị của người đang tạm thời nuôi dưỡng trẻ em khi đăng ký khai sinh cho trẻ.
Cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định lại dân tộc trong các trường hợp sau:
– Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ nếu cha đẻ và mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau;
– Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ nếu con nuôi đã xác định được cha đẻ hoặc mẹ đẻ của mình.
– Việc xác định lại dân tộc cho người từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi phải có sự đồng ý của người đó.
– Nghiêm cấm lợi dụng việc xác định lại dân tộc với mục đích trục lợi hoặc gây chia rẽ, phương hại đến sự đoàn kết của các dân tộc Việt Nam.
2.5. Quyền được khai sinh, khai tử
Quyền được khai sinh, khai tử được quy định trong Điều 30 của Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
– Mọi cá nhân từ khi sinh ra đều có quyền được khai sinh.
– Mọi cá nhân khi qua đời đều phải được khai tử.
– Trẻ em sinh ra và sống được ít nhất hai mươi bốn giờ mới được coi là chết và phải được khai sinh và khai tử; nếu trẻ em sinh ra nhưng sống dưới hai mươi bốn giờ thì không cần phải khai sinh và khai tử, trừ khi có yêu cầu từ phía cha đẻ hoặc mẹ đẻ.
– Việc khai sinh và khai tử được quy định bởi pháp luật về hộ tịch.
2.6. Quyền đối với quốc tịch
Quyền đối với quốc tịch được quy định trong Điều 31 của Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
– Mọi cá nhân đều có quyền sở hữu quốc tịch.
– Việc xác định, thay đổi, nhập, thôi, và trở lại quốc tịch Việt Nam được quy định bởi Luật quốc tịch Việt Nam.
– Quyền của những người không sở hữu quốc tịch, nhưng cư trú và sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam, được bảo đảm theo luật.
2.7. Quyền của cá nhân đối với hình ảnh
Quyền của cá nhân đối với hình ảnh được quy định trong Điều 32 của Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
– Mỗi cá nhân đều có quyền kiểm soát việc sử dụng hình ảnh của mình.
– Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được sự đồng ý của cá nhân đó.
– Trong trường hợp sử dụng hình ảnh của người khác với mục đích thương mại, phải trả thù lao cho người có hình ảnh, trừ khi có thỏa thuận khác giữa các bên.
Việc sử dụng hình ảnh không cần sự đồng ý của cá nhân hoặc người đại diện theo pháp luật trong các trường hợp sau:
– Khi sử dụng hình ảnh vì lợi ích quốc gia, dân tộc, hoặc lợi ích công cộng.
– Khi sử dụng hình ảnh từ các hoạt động công cộng như hội nghị, hội thảo, hoạt động thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật, và các hoạt động công cộng khác, miễn là không làm tổn thương danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh.
– Trong trường hợp vi phạm quy định tại Điều 32 của Bộ luật Dân sự 2015, người có hình ảnh có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, hoặc cá nhân liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại, và áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật.
2.8. Quyền sống và quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể
Quyền sống và quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể được quy định trong Điều 33 của Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
– Mỗi cá nhân đều có quyền sống và quyền không bị xâm phạm về tính mạng, thân thể, cũng như quyền được pháp luật bảo vệ về sức khỏe. Không ai được phép vi phạm tính mạng trái pháp luật.
– Khi phát hiện người bị tai nạn hoặc bệnh tật đang đe dọa tính mạng, người phát hiện phải hoặc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có điều kiện cần thiết đưa ngay đến cơ sở y tế gần nhất để kiểm tra và cấp cứu.
– Cơ sở y tế có trách nhiệm tiến hành các thủ tục kiểm tra và cấp cứu theo quy định của pháp luật về y tế.
– Việc thực hiện các biện pháp như gây mê, phẫu thuật, cắt bỏ, ghép mô, hay thử nghiệm y học, dược phẩm, khoa học trên cơ thể người đều phải có sự đồng ý của người đó và phải được tổ chức có thẩm quyền thực hiện.
Trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, hoặc bệnh nhân bất tỉnh, việc này phải có sự đồng ý từ phía cha mẹ, vợ chồng, con thành niên hoặc người giám hộ của họ; nếu có nguy cơ đe dọa tính mạng mà không thể chờ đợi được sự đồng ý của những người nêu trên, phải có quyết định của người có thẩm quyền của cơ sở y tế.
Việc thực hiện khám nghiệm tử thi chỉ được thực hiện trong các trường hợp sau:
– Người đó đã đồng ý trước khi qua đời;
– Có sự đồng ý của cha, mẹ, vợ, chồng, con thành niên hoặc người giám hộ nếu không có ý kiến từ người đó trước khi qua đời;
– Theo quyết định của người đứng đầu cơ sở y tế hoặc của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
2.9. Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín
Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín được quy định trong Điều 34 của Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
– Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được coi là không thể xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.
– Cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án từ chối thông tin gây ảnh hưởng tiêu cực đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình.
– Bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể thực hiện sau khi cá nhân qua đời theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc con thành niên; trường hợp không có họ, thì theo yêu cầu của cha, mẹ của người đã qua đời, trừ khi luật liên quan có quy định khác.
– Thông tin gây ảnh hưởng tiêu cực đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân phải được loại bỏ, sửa đổi trên các phương tiện truyền thông mà nó được công bố. Nếu thông tin đó được cơ quan, tổ chức, hoặc cá nhân lưu trữ, thì phải bị xóa bỏ.
– Trong trường hợp không xác định được người đưa ra thông tin xấu, cá nhân bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu Tòa án công nhận thông tin đó là không chính xác.
– Ngoài việc yêu cầu từ chối thông tin đó, cá nhân bị ảnh hưởng còn có quyền đòi hỏi người phát tán thông tin đó phải xin lỗi, sửa chữa công khai và bồi thường thiệt hại.
2.10. Quyền hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác
Quyền hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác được quy định trong Điều 35 của Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
– Cá nhân được quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống hoặc hiến mô, bộ phận cơ thể, hiến xác của mình sau khi qua đời cho mục đích điều trị hoặc nghiên cứu y học, dược học và các nghiên cứu khoa học khác.
– Cá nhân có quyền nhận mô, bộ phận cơ thể từ người khác để điều trị cho bản thân mình. Cơ sở y tế, pháp nhân có thẩm quyền trong lĩnh vực nghiên cứu y học có quyền nhận và sử dụng mô, bộ phận cơ thể người, lấy xác để thực hiện điều trị, thử nghiệm y học, dược học và các nghiên cứu khoa học khác.
– Việc hiến, lấy mô, bộ phận cơ thể người, hiến, lấy xác phải tuân thủ các điều kiện và được thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác cùng các luật liên quan.
2.11. Quyền xác định lại giới tính
Quyền xác định lại giới tính được quy định tại Điều 36 của Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
– Cá nhân có quyền tự xác định lại giới tính của mình.
– Việc xác định lại giới tính của cá nhân được thực hiện khi giới tính của họ bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa rõ ràng và cần sự can thiệp y học để xác định chính xác.
– Quy trình xác định lại giới tính phải tuân thủ theo quy định của pháp luật.
2.12. Quyền chuyển đổi giới tính
Quy định về chuyển đổi giới tính được miêu tả trong Điều 37 của Bộ luật Dân sự 2015:
Quá trình chuyển đổi giới tính phải tuân theo quy định của pháp luật. Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền và nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của luật về hộ tịch; họ cũng được phép có giấy tờ nhận thức phù hợp với giới tính mới theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 và các luật liên quan.
2.13. Quyền có đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, và bí mật gia đình
Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, và bí mật gia đình được coi là không thể xâm phạm và được bảo vệ bởi pháp luật.
Việc thu thập, lưu trữ, sử dụng, và tiết lộ thông tin liên quan đến đời sống riêng tư và bí mật cá nhân phải được sự đồng ý của cá nhân đó, và thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được sự đồng ý của các thành viên trong gia đình, trừ khi có quy định khác của pháp luật.
Thư từ, điện thoại, tin nhắn điện tử, cơ sở dữ liệu điện tử, và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân phải được đảm bảo an toàn và bí mật.
Việc mở bức thư, kiểm soát, hoặc tịch thu thư từ, điện thoại, tin nhắn điện tử, cơ sở dữ liệu điện tử, và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác chỉ được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, và bí mật gia đình của đối tác mà họ đã biết trong quá trình thiết lập và thực hiện hợp đồng, trừ khi có thỏa thuận khác.
2.14. Quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình
Quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình được quy định tại Điều 39 của Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
Mọi cá nhân đều được quyền kết hôn, ly hôn, và tận hưởng quyền bình đẳng của vợ chồng, cũng như quyền xác định cha mẹ, con cái, quyền nhận làm con nuôi, quyền nuôi con nuôi, và các quyền nhân thân khác trong mối quan hệ hôn nhân, quan hệ cha mẹ con, và giữa các thành viên trong gia đình.
Quyền của con cái không bị ảnh hưởng bởi tình trạng hôn nhân của cha mẹ; tất cả con cái đều có quyền và nghĩa vụ tương đương đối với cả cha lẫn mẹ của mình.
Mọi cá nhân thực hiện quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, Luật hôn nhân và gia đình và các luật có liên quan.
TUYET NHUNG LAW cung cấp đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp và giàu kinh nghiệm xử lý các vụ án trên thực tế. Liên hệ tư vấn hoặc mời luật sư tham giao bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp vui lòng liên hệ số điện thoại hotline: 0975.982.169 hoặc gửi yêu cầu qua email: buinhunglw2b@gmail.com để được hỗ trợ.