Sống chung như vợ chồng thì con cái và tài sản giải quyết như thế nào?

1. Sống chung như vợ chồng thì con cái và tài sản giải quyết như thế nào?

Nam và nữ đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014, nếu họ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, thì không phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền và nghĩa vụ liên quan đến con, tài sản, và hợp đồng giữa các bên sẽ được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật hôn nhân và gia đình 2014. 

Trong trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng sau đó họ quyết định đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.

Lưu ý:

Trường hợp hôn nhân thực tế được pháp luật công nhận như sau:

Căn cứ Thông tư liên tịch số: 01/2001/TANDTC ngày 03 tháng 01 năm 2001, quy định về 3 giai đoạn chính như sau:

– Đối với nam và nữ sống chung như vợ chồng trước ngày 03/01/1987, việc đăng ký kết hôn không bắt buộc mà chỉ được khuyến khích. Do đó, dù có đăng ký kết hôn hay không, mối quan hệ vợ chồng vẫn được công nhận theo luật.

– Trong thời kỳ từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001, nam và nữ sống chung như vợ chồng cần phải đăng ký kết hôn trong thời gian 02 năm, từ 01/01/2001 đến 01/01/2003, để hợp pháp hóa mối quan hệ vợ chồng. Đăng ký đúng hạn sẽ được công nhận từ ngày bắt đầu sống chung. Sau 01/01/2003, việc đăng ký kết hôn chỉ được công nhận từ ngày đăng ký, không tính từ ngày bắt đầu sống chung.

– Nam và nữ sống chung như vợ chồng từ ngày 01/01/2001 trở đi, nếu không đăng ký kết hôn, sẽ không được công nhận là vợ chồng. Điều kiện về đăng ký kết hôn, như tuổi tác và ý thức tự nguyện, cần phải tuân theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.
Trường hợp hôn nhân hợp pháp trong trường hợp có nhiều vợ:

Đối với những trường hợp kết hôn trước khi Luật hôn nhân gia đình năm 1959 có hiệu lực (trước ngày 13/01/1960), quan hệ hôn nhân với nhiều vợ, nhiều chồng vẫn được công nhận là hợp pháp, không vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng. Tuy nhiên, ảnh hưởng của luật này chỉ có hiệu lực đối với miền Bắc, trong khi ở miền Nam, Luật này được áp dụng từ ngày 25/3/1977 theo Nghị quyết 76/CP năm 1977. Những quan hệ hôn nhân nhiều vợ, nhiều chồng được xác lập trước ngày 25/3/1977 vẫn được công nhận là hợp pháp.

Trong trường hợp cán bộ, bộ đội từ miền Nam tập kết ra miền Bắc năm 1954 và kết hôn lại, mặc dù Luật quy định về chế độ một vợ một chồng nhưng do hoàn cảnh lịch sử, những trường hợp này vẫn được công nhận. Theo Thông tư số: 60/TATC ngày 22/2/1978 của Tòa án nhân dân tối cao, nếu người vợ hoặc người chồng từ miền Nam không có quan hệ hôn nhân mới và muốn duy trì quan hệ hôn nhân trước đó, thì cả hôn nhân mới và hôn nhân trước đó sẽ được công nhận.

Ảnh minh hoạ

2. Quyền và nghĩa vụ đối với con trong trường hợp sống chung như vợ chồng?

Quyền và nghĩa vụ giữa nam và nữ khi chung sống với nhau như vợ chồng, cùng như quyền và nghĩa vụ của con, sẽ được giải quyết theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014 về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con.

Theo quy định của pháp luật dân sự và hôn nhân gia đình, quyền của cha mẹ và con luôn được tôn trọng và bảo vệ. Con cái không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ và phải có những nghĩa vụ tương đương đối với cả cha lẫn mẹ. Cha mẹ cũng phải đối xử công bằng với con cái, không phân biệt dựa trên tình trạng hôn nhân của mình. Tổng quát, dù con cái không được sinh ra trong hôn nhân, cha mẹ vẫn phải yêu thương, chăm sóc, và giáo dục để con phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần. Ngược lại, con cái cũng phải biết trân trọng và quý trọng, biết ơn và chăm sóc cha mẹ của mình.

Tuy nhiên, trong trường hợp nam và nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn nhưng có con chung, khi đủ điều kiện để đăng ký kết hôn, hai bên nên đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền để đảm bảo con cái được chăm sóc và phát triển một cách toàn diện nhất.

– Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ bao gồm:

+ Yêu thương con, tôn trọng ý kiến của con, và chăm sóc việc học tập và giáo dục để con phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo trong gia đình và công dân có ích cho xã hội.
+ Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và bảo vệ quyền lợi của con, bao gồm cả con chưa trưởng thành, con mất năng lực hành vi dân sự, hoặc con không có khả năng lao động và không có tài sản để tự bảo vệ bản thân.

+ Thực hiện vai trò giám hộ hoặc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự đối với con chưa trưởng thành hoặc con mất năng lực hành vi dân sự.

+ Không phân biệt đối xử với con dựa trên giới tính hoặc tình trạng hôn nhân của cha mẹ; không lạm dụng lao động của con chưa trưởng thành, con mất năng lực hành vi dân sự, hoặc con không có khả năng lao động; không khuyến khích hoặc ép buộc con thực hiện các hành động vi phạm pháp luật hoặc đạo đức xã hội.

– Quyền và nghĩa vụ của con bao gồm:

+ Được cha mẹ yêu thương, tôn trọng và hưởng các quyền, lợi ích hợp pháp về nhân thân và tài sản theo quy định của pháp luật; có quyền được học tập và giáo dục, phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ và đạo đức.

+ Có trách nhiệm yêu quý, tôn trọng, biết ơn và hiếu thảo, phục dưỡng cha mẹ, giữ gìn danh dự và truyền thống tốt đẹp của gia đình.

Trong trường hợp là con chưa trưởng thành, con mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và tài sản để tự nuôi sống, con có quyền sống chung với cha mẹ, được cha mẹ trông nom, nuôi dưỡng và chăm sóc. Con chưa trưởng thành tham gia vào các công việc gia đình phù hợp với độ tuổi và tuân thủ quy định của pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.

Con đã trưởng thành có quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, địa điểm cư trú, học tập và phát triển trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội theo ý muốn và khả năng của mình. Khi sống cùng cha mẹ, con có nghĩa vụ tham gia vào các công việc gia đình, lao động, sản xuất để đảm bảo cuộc sống gia đình, và đóng góp thu nhập để đáp ứng nhu cầu của gia đình phù hợp với khả năng của mình.

Được hưởng quyền về tài sản phù hợp với sự đóng góp lao động vào tài sản của gia đình.

3. Giải quyết vấn đề tài sản chung của người sống chung như vợ chồng?

Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam và nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn sẽ được giải quyết dựa trên thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận, quan hệ này sẽ được xử lý theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định pháp luật có liên quan khác.

Trong việc giải quyết quan hệ tài sản, cần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và các công việc liên quan khác nhằm duy trì cuộc sống chung sẽ được coi như là lao động có thu nhập.

Do việc nam và nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn không tạo ra quan hệ vợ chồng hay hôn nhân. Vì vậy, các vấn đề liên quan đến tài sản giữa hai bên sẽ được giải quyết theo quy định của pháp luật dân sự. Cả hai đều có quyền chiếm hữu, sử dụng và quyết định về tài sản của mình. Trong trường hợp xảy ra tranh chấp và cần phải giải quyết vấn đề tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con (nếu có) phải được bảo vệ. Công việc nội trợ và các công việc khác liên quan đến duy trì cuộc sống chung cũng được coi là lao động có thu nhập và phải được xem xét trong quyết định giải quyết tranh chấp.

Chia tài sản thuộc sở hữu chung được thực hiện như sau:

Theo quy định của pháp luật, quan hệ hôn nhân chỉ phát sinh khi nam và nữ đăng ký kết hôn. Việc chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn không tạo ra quan hệ hôn nhân.

Trong trường hợp nam và nữ chung sống như vợ chồng, việc chia tài sản sở hữu chung sẽ tuân theo thỏa thuận. Nếu không có thỏa thuận, thì việc giải quyết sẽ được tiến hành theo quy định của pháp luật dân sự.

Theo Điều 219 của Bộ luật Dân sự năm 2015, việc chia tài sản thuộc sở hữu chung được quy định như vấn đề này như sau:

– Mỗi chủ sở hữu chung có quyền yêu cầu chia tài sản chung, trừ khi tình trạng sở hữu chung được thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Khi không thể chia bằng hiện vật, chủ sở hữu chung có thể yêu cầu bán phần quyền sở hữu của mình.

– Trong trường hợp một trong các chủ sở hữu chung không có khả năng thanh toán, người yêu cầu có quyền tham gia vào việc chia tài sản chung. Nếu không thể chia hoặc bị phản đối, người có quyền có thể yêu cầu bán phần quyền sở hữu của mình.

Như vậy, việc chia tài sản thuộc sở hữu chung của nam và nữ chung sống như vợ chồng phụ thuộc vào thỏa thuận giữa hai bên hoặc sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật, trong đó mỗi bên đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung.


TUYET NHUNG LAW cung cấp đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp và giàu kinh nghiệm xử lý các vụ án trên thực tế. Liên hệ tư vấn hoặc mời luật sư tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp vui lòng liên hệ số điện thoại: 0975.982.169 hoặc gửi yêu cầu qua email: buinhunglw2b@gmail.com để được hỗ trợ kịp thời.

Luật sư Bùi Thị Nhung: