Tội bức tử Điều 130

1. Tội bức tử Điều 130

“Điều 130. Tội bức tử
1. Người nào đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm người đó tự sát, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
a) Đối với 02 người trở lên;
b) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai.”

2. Bức tử là gì?

Có ba khía cạnh quan trọng cần được hiểu rõ về tội “Bức tử”:

Thứ nhất, đối với người lệ thuộc trong tội “Bức tử”, họ được định nghĩa là những người phụ thuộc vào người phạm tội trong các khía cạnh kinh tế, công việc, tôn giáo hoặc các khía cạnh khác. Cụ thể, điều này bao gồm sự phụ thuộc về mặt kinh tế (thể hiện thông qua việc nạn nhân phải phụ thuộc vào người phạm tội để có đủ nhu cầu cơ bản như ăn, mặc, ở); sự phụ thuộc trong công việc (thể hiện qua ảnh hưởng và tác động của người khác trong mối quan hệ công việc); sự phụ thuộc về tôn giáo như tín đồ của người có chức sắc trong giáo hội; sự phụ thuộc về các khía cạnh khác như bệnh nhân đối với bác sĩ hoặc học sinh đối với giáo viên.

Thứ hai, người phạm tội sẽ bị coi là có tội bức tử nếu họ thỏa mãn một trong những hành vi sau đây:

Đối xử tàn ác với nạn nhân, tức là hành động tàn nhẫn gây đau khổ cho người lệ thuộc, có thể là đau khổ về thể xác hoặc tinh thần.
Thường xuyên ức hiếp nạn nhân, tức là sử dụng quyền lực, sức mạnh, tiền tài, hoặc địa vị để ép buộc người lệ thuộc chịu đựng sự bất công, với điều kiện hành vi ức hiếp phải xảy ra thường xuyên.
Ngược đãi nạn nhân, tức là đối xử tàn nhẫn và không công bằng trong các mối quan hệ gia đình, công việc, và giữa vợ chồng.
Làm nhục nạn nhân bằng cách tổn thương danh dự của họ bằng lời nói hoặc hành động, chẳng hạn như xỉ vả, lăng mạ trước đám đông hoặc tung tin đồn giả mạo.
Thứ ba, hậu quả của tội “Bức tử” là yếu tố bắt buộc, chỉ khi nạn nhân tự tử mới có thể xem là đã cấu thành tội phạm này.

Như vậy, tội “Bức tử” là một tội phạm nghiêm trọng vi phạm quyền con người, và do đó, bảo vệ những người yếu thế đòi hỏi các biện pháp đúng đắn và kịp thời để giảm thiểu tối đa tình trạng phạm tội này.

3. Cấu thành tội bức tử?

3.1. Về mặt khách quan của tội phạm

Người nào thực hiện một trong bốn hành vi sau đây, dẫn đến việc người lệ thuộc mình tự sát, sẽ bị coi là phạm tội bức tử:

– Hành vi đối xử tàn ác đối với người lệ thuộc: Thường xuyên thực hiện hành động đánh đập, bỏ đói, hoặc bóc lột sức lao động, gây tổn thương về thể xác đến mức có thương tích hoặc làm hại sức khỏe của nạn nhân.

– Hành vi thường xuyên ức hiếp người lệ thuộc: Thực hiện hành vi không công bằng, xâm phạm quyền lợi chính đáng của nạn nhân, thường xuyên lặp lại nhiều lần.

– Hành vi ngược đãi người lệ thuộc: Đối xử tệ bạc, cung cấp thức ăn kém chất lượng hoặc ôi thiu, cung cấp trang phục rách rưới và không đủ ấm, trong khi có điều kiện để cung cấp tốt hơn.

– Hành vi làm nhục người lệ thuộc: Xúc phạm danh dự và nhân phẩm của nạn nhân, chửi rủa thậm tệ, bôi nhọ danh dự, miệt thị, nhạo báng hoặc thực hiện các hành vi xúc phạm không chấp nhận khác.

Lưu ý: Tổng thể, những hành vi trên đây đã cấu thành một phần của tội phạm bức tử (với hậu quả là người lệ thuộc tự sát), và người thực hiện hành vi sẽ không bị xử lý thêm về các tội phạm khác như Tội hành hạ người khác (Điều 140) hoặc Tội làm nhục người khác (Điều 155).

Tội phạm được coi là hoàn thành ngay từ lúc người lệ thuộc trở thành nạn nhân của hành vi bức tử, không phụ thuộc vào việc nạn nhân có sống sót hay không. Việc nạn nhân tự sát chỉ ảnh hưởng đến quyết định hình phạt. Ngoài ra, có những trường hợp có thể xem xét về việc truy tố hoặc không truy tố người thực hiện hành vi bức tử, ngay cả khi nạn nhân không chết.

3.2. Về mặt khách thể của tội phạm

Những hành vi thuộc tội bức tử, như đã mô tả ở trên, là những hành động xâm phạm đến sức khỏe và quyền sống của người bị hại. Những quyền này được xem là cơ bản và được hệ thống pháp luật bảo vệ.

3.3. Về mặt chủ quan của tội phạm

Những hành vi vi phạm của tội này có thể thực hiện do lỗi cố ý gián tiếp hoặc lỗi vô ý, được mô tả cụ thể như sau:
– Lỗi cố ý gián tiếp: Người phạm tội có nhận thức rõ rằng hành vi của mình có thể dẫn đến việc người bị hại tự sát, và họ thậm chí có thể dự đoán trước được hậu quả này, mặc dù không mong muốn nhưng vẫn tiếp tục hành động mà họ biết có thể dẫn đến hậu quả đó.
– Lỗi vô ý do quá tự tin: Người phạm tội thấy rằng hành động của họ có thể dẫn đến việc người bị hại tự sát, nhưng họ tự tin rằng hậu quả này sẽ không xảy ra. Họ có thể cho rằng người bị hại không dám hoặc không thể tự sát, hoặc họ có thể ngăn chặn được người bị hại tự sát.
– Lỗi vô ý do cẩu thả: Người phạm tội không thấy trước rằng hành động của họ có thể dẫn đến việc người bị hại tự sát, mặc dù họ có thể và nên dự đoán được điều này.

3.4. Về mặt chủ thể của tội phạm

Người vi phạm tội bức tử có thể là bất kỳ ai (bao gồm cả công dân Việt Nam, người nước ngoài và người không có quốc tịch); với điều kiện đã đủ 16 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định của Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi 2017.
Năng lực trách nhiệm hình sự bao gồm cả khả năng nhận thức và khả năng kiểm soát hành vi. Trong trường hợp thiếu một trong hai khả năng này, người đó sẽ được coi là không có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc sẽ bị hạn chế năng lực chịu trách nhiệm hình sự, và có thể được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 21 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi 2017.

4. Hình phạt với tội bức tử

Đối với tội bức tử, hệ thống pháp luật hình sự hiện tại phân chia thành hai khung hình phạt, chi tiết được quy định tại Điều 130 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 như sau:
– Khung 1: Đối với người vi phạm tội đã thể hiện các dấu hiệu cơ bản như đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc khiến người đó tự sát, mức phạt được áp đặt là từ 02 năm đến 07 năm tù.
– Khung 2: Đối với người phạm tội có hành vi bức tử đối với ít nhất 2 người hoặc đối với người dưới 16 tuổi, cũng như phụ nữ mang thai, mức phạt có thể dao động từ 05 năm đến 12 năm tù.
Theo quy định của pháp luật hình sự, người vi phạm tội bức tử có thể phải chịu mức phạt tối đa lên đến 12 năm tù.

5. Một số bản án liên quan

5.1. Bản án số: 05/2018/HS-ST, ngày 18/01/2018 của Toà án tỉnh Cao Bằng

Ngày 18 tháng 01 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 32/2017/HSST ngày 21 tháng 11 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2017/HSST-QĐ ngày 29 tháng 12 năm 2017 đối với:
Bị cáo Đặng Chòi H, sinh ngày 15 tháng 9 năm 1983
Nơi cư trú: xóm BR, xã SL, huyện BL, tỉnh CB
Dựa vào các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án có thể tóm tắt như sau:
Năm 2002, Đặng Chòi H và chị Hoàng Mùi N cư trú tại xóm BR, xã SL, huyện BL, tỉnh CB, sống như vợ chồng. Từ năm 2011, họ thường xuyên gặp mâu thuẫn, với H nghi ngờ vợ quan hệ với người khác, dẫn đến việc lạm dụng, đánh đập vợ. Trong một sự cố vào ngày 07/8/2016, H đã chửi, đánh, và dùng cây trúc đánh vào chị N, đồng thời ép buộc chị uống thuốc diệt cỏ. Chị N sau đó tử vong vào ngày 31/8/2016.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bảo Lạc đã tiến hành giám định pháp y, kết luận chị N tử vong do suy hô hấp và suy tuần hoàn không hồi phục, hậu quả sau ngộ độc thuốc diệt cỏ.
Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lạc đã truy tố Đặng Chòi H về tội “Bức tử” theo khoản 1 Điều 100 Bộ luật hình sự. Trong phiên tòa, kiểm sát viên duy trì quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 điều 100, điểm p khoản 1 điều 46 Bộ luật hình sự, đề xuất khung hình phạt từ 02 đến 03 năm tù.
Dựa vào khoản 1 Điều 100 của Bộ luật hình sự 1999, được sửa đổi và bổ sung năm 2009, Hội đồng xét xử ban hành bản án tuyên bố rằng Đặng Chòi H đã phạm tội “Bức tử”.
Khoản 1 Điều 100 và điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, quy định xử phạt Đặng Chòi H với hình phạt 02 (hai) năm tù, thời gian thụ hình được tính từ ngày 06/10/2017.

5.2. Bản án số: 43/2018/HSST ngày 23/01/2018 của Toà án tỉnh Sơn La

Ngày 23 tháng 01 năm 2018, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện S, tỉnh Sơn La, diễn ra phiên xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự được thụ lý theo quyết định số: 06/2017/HSST ngày 06 tháng 10 năm 2017, đối với bị cáo sau đây:
Họ và tên: Vàng A C, còn được biết đến với tên gọi khác Vàng Nh H, sinh năm 1968; nơi ĐKHKTT: Bản Cang C, xã HM, huyện S, tỉnh Sơn La; dân tộc: Mông; tôn giáo: Không; Chức vụ, đảng, đoàn thể: Không; nghề nghiệp: trồng trọt; trình độ văn hóa: 3/10; con ông: Vàng Sông H (đã qua đời); công bà: Hờ Th M (đã qua đời); bị cáo chung sống với 03 người vợ: Người thứ nhất: Giàng Th K (đã chia tay); người thứ hai: Sồng Th D, sinh năm 1975; người thứ ba: Lầu Th L, còn được biết đến với tên gọi khác Lù Th L (đã qua đời); tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2017.
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Sau khi ly thân với vợ trước đó, vào năm 1993, Vàng A C kết hôn với Sộng Th D (đã có đăng ký kết hôn). Vợ chồng C – D có với nhau bốn người con, đã trưởng thành. Năm 2003, C nghi ngờ D có quan hệ ngoại tình với Vàng A L, dẫn đến mâu thuẫn và C bị L bắn và bị thương. L sau đó bị xử phạt tù và phải bồi thường thiệt hại cho C với số tiền là 2.187.000 đồng. Trong thời gian này, do C hành xử tệ bạc, bạo hành, D đã rời khỏi nhà sống với bố mẹ đẻ. Sau đó, C đã phải đến xin lỗi vợ và họ hàng và đón D trở về sống chung.
Vào năm 2009, C lại lấy thêm một người vợ khác, là Lầu Th L (không có hôn thú), và C và L có một đứa con chung.
C và hai người vợ sống chung một nhà, mọi quan hệ bên ngoài cũng như sinh hoạt và chi tiêu trong gia đình đều do C quyết định. Khi vợ con không đồng ý, C thường quát nạt và bạo hành. Các con trưởng thành có ý kiến về tính cách của bố, nhưng C không chịu lắng nghe.
Các lần Vàng A C đánh đập vợ có các chi tiết như sau:

Đối với vợ chính thức Sộng Th D:

Lần thứ nhất: Sau khi Vàng A L ra tù, C đến gặp L để đòi tiền bồi thường nhưng không thành công. Về nhà, C trút cơn tức giận lên vợ bằng cách quát mắng và dùng que gỗ đánh nhiều nhát vào chân vợ, gây nhiều vết thâm tím, vào khoảng 21 giờ của một ngày tháng 01 năm 2017.
Lần thứ hai: Khoảng 15 giờ của một ngày trong tháng 01 năm 2017, sau khi đòi tiền nhưng không được, C dùng thanh sắt đánh vợ nhiều nhát, gây nên vết bầm tím.
Lần thứ ba: Nghi ngờ D ngoại tình, C đã tra khảo và sau đó cầm thanh gỗ đánh D, khiến D chạy thoát. Ngày hôm sau, C lại tra khảo và tát vào mặt D. D sợ hãi, bỏ chạy vào rừng và sau đó hái lá ngón nhỏ trong rừng. Chiều, D về nhà và đi vào giường ngủ. C tiếp tục tra khảo và tát vào mặt D, khiến D ăn lá ngón. Sau khi phát hiện, D được đưa đến bệnh viện và may mắn thoát chết. D sau đó rời về nhà ngoại.

Đối với vợ không chính thức Lầu Th L:

Cũng do nghi ngờ L ngoại tình, C thường xuyên tra khảo và đánh đập.
Lần thứ nhất: Khoảng 18 giờ của một ngày trong tháng 5 năm 2017, C tát L nhiều nhát vì tức giận khi thấy con khóc nhiều.
Lần thứ hai: Khoảng ba bốn ngày sau, khi thấy L đứng khóc gần cửa sau nhà, C cầm đoạn gậy gỗ và đánh nhiều nhát vào L. L phải van xin mới khiến C dừng lại.C và L cãi nhau về việc C bị phạt một triệu đồng cho họ ngoại. Trong lúc cãi nhau, C cầm que củi cháy đánh vào đùi và chân L. L chạy trốn vào rừng và sau đó trở về quê ngoại. Hai ngày sau đó, vào ngày 22/5/2017, L trình báo tại cơ quan công an về việc bị chồng đánh dã man. Ngày 03/6/2017, C đến xin lỗi L và họ ngoại, đồng thời nộp một triệu đồng theo trình tự truyền thống và đón L về nhà.
Lần thứ ba: Trong cuộc cãi nhau về việc C phải nộp phạt một triệu đồng cho việc ngoại tình, C cảm thấy tức giận và ngay lập tức nắm một que củi cháy từ bếp. Anh ta nhấn đống than cháy và liên tục đâm vào đùi và chân của L, khiến L phải bỏ chạy. C sau đó đặt que củi trở lại bếp. Tối hôm đó, trong phòng ngủ, C lại tỏ ra tức giận và liên tục đánh vào mặt L.
Vào sáng ngày 08/6/2017, Lầu Th L kể lại việc bị C đánh cho Vàng Th H (con gái của C và D) và thể hiện tâm trạng buồn chán và tiêu cực. Sau đó, H phát hiện L nôn mửa và biết rằng L đã tự uống thuốc diệt cỏ để tự tử. Gia đình đã giữ gìn L, nhưng đến trưa ngày 09/6/2017, họ đưa L đến Bệnh Viện huyện S để chữa trị. Tuy nhiên, vào chiều ngày 10/6/2017, họ tự ý mang L về nhà. Khi thấy tình trạng của L trầm trọng hơn, gia đình đưa L đến Bệnh Viện vào ngày 12/6/2017, nhưng Bệnh Viện cho biết không còn khả năng chữa trị và khuyến cáo đưa L về nhà để lo hậu sự. Về đến nhà khoảng 08:00 ngày 14/6/2017, L đã qua đời.
Bị cáo Vàng A C (Vàng Nh H) đã bị HĐXX tuyên bố phạm tội Bức tử theo Điều 100, Khoản 2 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Anh ta đã bị xử phạt với hình phạt là 06 (sáu) năm tù. Thời gian thực hiện hình phạt tính từ ngày bắt giữ, tạm giam vào ngày 14/6/2017.
Nguồn: Tuyet Nhung Law tổng hợp.

Nếu quý khách hàng đang gặp phải bất kỳ vấn đề pháp lý nào hoặc cần tìm kiếm luật sư tham gia bào chữa vụ án. Xin vui lòng liên hệ với luật sư thông qua số điện thoại: 0975.982.169.

Theo dõi chúng tôi trên
CÙNG CHỦ ĐỀ
Gọi luật sư Gọi luật sư Yêu cầu gọi lại Yêu cầu dịch vụ