Tội cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng Điều 136

1. Tội cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng Điều 136

“Điều 136. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.
3. Phạm tội dẫn đến chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.”

2. Gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là gì?

Căn cứ vào Điều 22 của Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017, phòng vệ chính đáng được định nghĩa là hành vi của người chống trả một cách cần thiết để bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của bản thân, người khác, hoặc lợi ích của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, chống lại hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Hành vi này không bị coi là tội phạm. Để được xem xét là phòng vệ chính đáng, cần thỏa hai điều kiện chính: Hành vi xâm phạm lợi ích chính đáng của bản thân, người khác hoặc của Nhà nước, cơ quan, tổ chức hoặc chống trả một cách cần thiết và đủ để ngăn chặn hành vi xâm phạm nói trên.

Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được hiểu là hành vi chống trả quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm phạm. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng sẽ chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự.

Việc xác định hành vi có vượt quá giới hạn hay không đòi hỏi sự đánh giá dựa trên nhiều yếu tố và có thể gặp khó khăn trong quá trình xử lý vi phạm hình sự. Điều này cần sự xét xử một cách khách quan và dựa trên những dữ kiện cụ thể của vụ án/ vụ việc.

3. Cấu thành tội cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là gì?

3.1. Mặt khách quan của tội phạm

Mặt khách quan của hai tội này được thể hiện thông qua những dấu hiệu sau:

– Về hành vi:

+ Gây thương tích: Thực hiện hành vi gây thương tích đối với người đang có hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của bản thân hoặc người khác, vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.

+ Gây tổn hại cho sức khỏe: Thực hiện hành vi gây tổn hại cho sức khỏe của người đang có hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của bản thân hoặc người khác, vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.

– Về hậu quả:

Người thực hiện hành vi nêu trên chỉ chịu trách nhiệm hình sự khi gây ra hậu quả là làm cho người bị hại bị thương tật tỷ lệ từ 31% trở lên hoặc dẫn đến chết người. Đây là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này.

3.2. Mặt khách thể của tội phạm

Hành vi  không chỉ làm tổn thương sức khỏe của người khác mà còn gián tiếp đặt tính mạng của họ vào tình thế nguy hiểm.

3.3. Mặt chủ quan của tội phạm

Người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội này với lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp.

3.4. Mặt chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội này là bất kỳ người nào đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

4. Hình phạt của tội này?

– Khung 1:

Được áp dụng trong trường hợp có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này, khung hình phạt bao gồm phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ kéo dài đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm, nhằm xử lý những trường hợp vi phạm mặt khách quan và chủ quan.

– Khung 2:

Áp dụng khi có nhiều người bị ảnh hưởng (tức là từ hai người trở lên), khung hình phạt được xác định là phạt tù từ một năm đến ba năm để đối mặt với các trường hợp vi phạm đặc biệt.

5. Phân biệt tội cố ý gây thương tích và tội giết người

Tiêu chí Tội giết người Tội cố ý gây thương tích
Mục đích hành vi phạm tội: Nếu chứng minh được ý thức chủ quan của người thực hiện hành vi phạm tội là tước đoạt tính mạng của người khác thì phạm tội giết người. nếu ý thức chủ quan không có ý định giết người thì phạm tội cố ý gây thương tích.
Mức độ tấn công, cường độ tấn công: Nếu người phạm tội có hành vi đánh người một cách liên tục và rất mạnh, chứng tỏ họ có ý định giết người. Không mang tính chất liên tục và không quá mạnh cho thấy chỉ mong muốn gây thương tích cho bị hại.
Vị trí tác động: Căn cứ vào vị trí tấn công trên cơ thể, có thể xác định các vị trí như vùng đầu, vùng ngực, bụng… đây được xem là những vị trí trọng yếu trên cơ thể. Ngoài ra, khi xác định các vị trí trọng yếu của cơ thể con người cần kết hợp với việc xác định các yếu tố khác như cường độ tấn công, mức độ tấn công, hung khí sử dụng… Thường tấn công vào các vùng không trọng yếu trên cơ thể.
Yếu tố lỗi: Người phạm tội chỉ mong muốn hoặc bỏ mặc cho hậu quả gây thương tích xảy ra. Mong muốn hậu quả xảy ra, hậu quả chết người không xảy ra là ngoài ý muốn của họ.

6. Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự?

6.1. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

– Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
– Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
– Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
– Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
– Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
– Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
– Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
– Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
– Phạm tội do lạc hậu;
– Người phạm tội là phụ nữ có thai;
– Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
– Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
– Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
– Người phạm tội tự thú;
– 14 Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
– 15 Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
– Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
– Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
– 16 Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
– Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
– Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.

6.2. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự

– Phạm tội có tổ chức;
– Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;
– Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;
– Phạm tội có tính chất côn đồ;
– Phạm tội vì động cơ đê hèn;
– Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;
– Phạm tội 02 lần trở lên;
– Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm;
– Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc17 người đủ 70 tuổi trở lên;
– Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác;
– Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội;
– Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc18 tàn ác để phạm tội;
– Dùng thủ đoạn hoặc19 phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội;
– Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội;
– Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm.

TUYET NHUNG LAW cung cấp đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp và giàu kinh nghiệm xử lý các vụ án trên thực tế. Liên hệ tư vấn hoặc mời luật sư bào chữa vui lòng liên hệ: 0975.982.169 hoặc gửi yêu cầu qua email: buinhunglw2b@gmail.com để được hỗ trợ.

Luật sư Bùi Thị Nhung: