Tội cố ý truyền HIV cho người khác Điều 149

1. Tội cố ý truyền HIV cho người khác Điều 149

“Điều 149. Tội cố ý truyền HIV cho người khác
1. Người nào cố ý truyền HIV cho người khác, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 148 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Có tổ chức;
b) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
c) Đối với người dưới 18 tuổi;
d) Đối với từ 02 người đến 05 người;
đ) Lợi dụng nghề nghiệp;
e) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%[65].
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Đối với phụ nữ mà biết là có thai;
b) Đối với 06 người trở lên;
c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên[66];
d) Làm nạn nhân tự sát.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

(Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017)

2. Cố ý truyền HIV cho người khác là gì?

Là hành vi truyền bệnh HIV cho người khác cố ý không nhất thiết phải bắt nguồn từ chủ thể. Hành động này có thể bắt nguồn từ bất kỳ hình thức nào, như việc cố ý sử dụng kim tiêm chứa virus để đâm vào người khác.

3. Cấu thành tội phạm?

3.1. Mặt khách quan

Người phạm tội, mặc dù không mắc HIV, nhưng đã cố ý truyền HIV từ một nguồn bệnh sang người khác, thực hiện các hành vi như chọc kim tiêm từ người nhiễm HIV rồi chọc vào người khác, sử dụng dao, mảnh chai để rạch tay, chân của người nhiễm HIV và rồi rạch vào người khác, hoặc chuyển máu của người nhiễm HIV cho người khác. Ngoài ra, họ còn có hành vi sử dụng thủ đoạn để làm cho máu trong các bình, túi máu sạch tại các bệnh viện bị nhiễm vi rút HIV, với ý định truyền bệnh cho nhiều người khác. Trong trường hợp chỉ làm nhiễm vi rút HIV trong các túi hoặc bình máu dự trữ, mà chưa truyền cho người khác và bị phát hiện kịp thời, người phạm tội vẫn bị truy tố về tội cố ý truyền HIV cho người khác, ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội.

Hậu quả của hành động này là người khác cũng bị nhiễm HIV. Để xác định nạn nhân có bị nhiễm bệnh hay không, cần dựa vào kết quả xét nghiệm của cơ quan y tế có thẩm quyền. ∆Nếu nạn nhân không bị nhiễm bệnh thì không cấu thành tội. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả phải được làm rõ. Nạn nhân bị nhiễm HIV phải là do lây nhiễm từ người phạm tội, nếu không, người đó không phạm tội này.

Dấu hiệu hậu quả là yếu tố để xác định tội phạm đã hoàn thành. Mối liên hệ giữa hậu quả và hành vi của người phạm tội phải được thiết lập. Tội phạm được coi là đã hoàn thành khi họ truyền HIV từ người nhiễm bệnh sang người khác và do hành vi này mà nạn nhân bị nhiễm HIV. Trong trường hợp nạn nhân chưa nhiễm HIV nhưng người phạm tội đã thực hiện các hành vi mà mục tiêu và hậu quả có thể được dự đoán, thì người đó vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt.

3.2. Mặt khách thể

Khách thể của tội phạm là quyền được bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người và sự an toàn của cả cộng đồng trước bệnh tật.

3.3. Mặt chủ quan

Người phạm tội trực tiếp thực hiện việc truyền HIV cho người khác với tư cách cố ý. Họ hoàn toàn nhận thức được rằng hành vi này sẽ gây ra hậu quả là nạn nhân bị nhiễm HIV và họ mong muốn hậu quả đó xảy ra. Hành vi truyền HIV được coi là rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng trong phạm vi của pháp luật, so với hành vi lây truyền HIV, mặc dù cả hai đều được xem là vi phạm tội.

3.4. Mặt chủ thể

Người phạm tội cố ý truyền HIV cho người khác là người không thuộc vào các trường hợp được mô tả trong Điều 148 của Bộ luật này. Do đó, chủ thể của tội phạm này có thể là người không mắc HIV hoặc có mắc HIV nhưng vi rút HIV mà họ truyền cho người khác không phải từ cơ thể của họ mà từ cơ thể của người khác.

Người phạm tội có thể là cá nhân thực hiện hành vi truyền HIV độc lập, nhưng cũng có thể là người thực hiện hành vi, người tổ chức, người xúi giục hoặc người giúp sức trong vụ án đồng phạm cố ý truyền HIV cho người khác. Tuy nhiên, ngoài việc chủ thể không phải là người nhiễm HIV được quy định cụ thể trong Điều 149 của Bộ luật Hình sự, người phạm tội cũng phải đáp ứng các điều kiện về độ tuổi (16 tuổi trở lên theo quy định tại Điều 12 của Bộ luật Hình sự) và năng lực trách nhiệm hình sự, bao gồm năng lực nhận thức và năng lực làm chủ hành vi.

4. Hình phạt đối với tội này?

Khung hình phạt Áp dụng đối với hành vi
Khung 1: Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm. – Người nào cố ý truyền HIV cho người khác.
Khung 2: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.  – Người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: Có tổ chức; đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; đối với người dưới 18 tuổi; đối với từ 02 người đến 05 người; lợi dụng nghề nghiệp; gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 31% đến 60%.
Khung 3: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. – Người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau: đối với phụ nữ mà biết là có thai; đối với 06 người trở lên; gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 61% trở lên; làm nạn nhân tự sát.
Hình phạt bổ sung: – Người phạm tội có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

5. Phân biệt với tội lây truyền HIV cho người khác?

Tiêu chí Tội lây truyền HIV cho người khác  Tội cố ý truyền HIV cho người khác
Căn cứ pháp lý Điều 148 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017

Điều 149 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017

Khách thể Khách thể của tội phạm là quyền được bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người và sự an toàn của cả cộng đồng trước bệnh tật.
Mặt khách quan

Người phạm tội, mặc dù biết mình bị nhiễm HIV, nhưng vì một động cơ nào đó, đã truyền bệnh này cho người khác thông qua các hành vi như chọc kim tiêm vào người mình rồi chọc vào người khác, sử dụng dao, mảnh chai để rạch tay, chân của mình và sau đó rạch vào người khác, hoặc chuyển máu của mình cho người khác, hoặc tham gia vào các quan hệ tình dục không an toàn với người khác. Ví dụ như một cô gái, sau khi biết mình bị nhiễm HIV, cảm thấy tức giận và tuyệt vọng nên quan hệ tình dục không an toàn với nhiều người, có ý thức rằng nếu mình chết thì cũng muốn đưa theo nhiều người. Trường hợp người mẹ bị nhiễm HIV đã sinh ra con cũng mắc bệnh này thì không bị coi là phạm tội.

Tuy nhiên, Điều 147 của Bộ luật Hình sự loại trừ một trường hợp không được coi là phạm tội lây truyền HIV cho người khác, đó là khi nạn nhân đã biết về tình trạng nhiễm HIV của người mắc bệnh và tự nguyện tham gia vào quan hệ tình dục. Do đó, điều kiện để người truyền bệnh HIV cho người khác bị coi là phạm tội là khi nạn nhân không biết rằng người họ quan hệ tình dục với đã mắc bệnh HIV.

Hậu quả của hành vi này là người khác cũng bị nhiễm HIV. Để xác định nạn nhân có bị nhiễm bệnh hay không, cần dựa vào kết quả xét nghiệm của cơ quan y tế có thẩm quyền. Nếu nạn nhân không mắc bệnh thì không cấu thành tội. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả phải được làm rõ. Nạn nhân bị nhiễm HIV phải là do lây nhiễm từ người phạm tội, nếu không, người đó không phạm tội này.

Tội phạm được coi là hoàn thành từ khi hậu quả là nạn nhân bị nhiễm HIV xảy ra. Trong trường hợp nạn nhân không mắc bệnh nhưng đã tham gia vào hành vi lây truyền, người phạm tội phải chịu trách nhiệm về trường hợp có sự chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa hoàn chỉnh.

 

Người phạm tội, mặc dù không mắc HIV, nhưng đã cố ý truyền HIV từ một nguồn bệnh sang người khác, thực hiện các hành vi như chọc kim tiêm từ người nhiễm HIV rồi chọc vào người khác, sử dụng dao, mảnh chai để rạch tay, chân của người nhiễm HIV và rồi rạch vào người khác, hoặc chuyển máu của người nhiễm HIV cho người khác. Ngoài ra, họ còn có hành vi sử dụng thủ đoạn để làm cho máu trong các bình, túi máu sạch tại các bệnh viện bị nhiễm vi rút HIV, với ý định truyền bệnh cho nhiều người khác. Trong trường hợp chỉ làm nhiễm vi rút HIV trong các túi hoặc bình máu dự trữ, mà chưa truyền cho người khác và bị phát hiện kịp thời, người phạm tội vẫn bị truy tố về tội cố ý truyền HIV cho người khác, ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội.

Hậu quả của hành động này là người khác cũng bị nhiễm HIV. Để xác định nạn nhân có bị nhiễm bệnh hay không, cần dựa vào kết quả xét nghiệm của cơ quan y tế có thẩm quyền. Nếu nạn nhân không bị nhiễm bệnh thì không cấu thành tội. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả phải được làm rõ. Nạn nhân bị nhiễm HIV phải là do lây nhiễm từ người phạm tội, nếu không, người đó không phạm tội này.

Dấu hiệu hậu quả là yếu tố để xác định tội phạm đã hoàn thành. Mối liên hệ giữa hậu quả và hành vi của người phạm tội phải được thiết lập. Tội phạm được coi là đã hoàn thành khi họ truyền HIV từ người nhiễm bệnh sang người khác và do hành vi này mà nạn nhân bị nhiễm HIV. Trong trường hợp nạn nhân chưa nhiễm HIV nhưng người phạm tội đã thực hiện các hành vi mà mục tiêu và hậu quả có thể được dự đoán, thì người đó vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt.

Chủ thể

Chủ thể của tội lây truyền HIV cho người khác được xem là chủ thể đặc biệt.

Đầu tiên, họ phải là những người mắc HIV, tức là là nguồn bệnh và mong muốn lây nhiễm cho người khác. Hành động này có thể diễn ra khi họ mới phát hiện mình mắc HIV hoặc khi bệnh đã phát triển thành giai đoạn AIDS, khi họ cảm thấy bệnh tình nặng nề và không muốn sống nữa, thậm chí muốn lây bệnh cho người khác. Chủ thể của tội này có thể là một người, hoặc có thể là một nhóm người cùng mong muốn lây truyền HIV cho người xung quanh.

Thứ hai, chủ thể của tội phạm phải là người từ đủ 16 tuổi trở lên, theo quy định tại Khoản 1 Điều 12 của Bộ luật hình sự.

Thứ ba, chủ thể của tội phạm cần phải có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bao gồm cả năng lực nhận thức và năng lực kiểm soát hành vi của mình.

Điều 149 của Bộ luật Hình sự quy định rằng người phạm tội cố ý truyền HIV cho người khác là người không thuộc vào các trường hợp được mô tả trong Điều 148 của Bộ luật này. Do đó, chủ thể của tội phạm này có thể là người không mắc HIV hoặc có mắc HIV nhưng vi rút HIV mà họ truyền cho người khác không phải từ cơ thể của họ mà từ cơ thể của người khác.

Người phạm tội có thể là cá nhân thực hiện hành vi truyền HIV độc lập, nhưng cũng có thể là người thực hiện hành vi, người tổ chức, người xúi giục hoặc người giúp sức trong vụ án đồng phạm cố ý truyền HIV cho người khác. Tuy nhiên, ngoài việc chủ thể không phải là người nhiễm HIV được quy định cụ thể trong Điều 149 của Bộ luật Hình sự, người phạm tội cũng phải đáp ứng các điều kiện về độ tuổi (16 tuổi trở lên theo quy định tại Điều 12 của Bộ luật Hình sự) và năng lực trách nhiệm hình sự, bao gồm năng lực nhận thức và năng lực làm chủ hành vi.

Mặt chủ quan

Người phạm tội, có ý định cố ý truyền HIV cho người khác, rõ ràng nhận thức về tình trạng mắc HIV của bản thân và mong muốn người khác cũng bị nhiễm HIV như mình. Trong khi đó, nếu một người không biết mình mắc HIV và vô tình lây lan cho người khác, thì không bị coi là phạm tội này.

Người phạm tội trực tiếp thực hiện việc truyền HIV cho người khác với tư cách cố ý. Họ hoàn toàn nhận thức được rằng hành vi này sẽ gây ra hậu quả là nạn nhân bị nhiễm HIV và họ mong muốn hậu quả đó xảy ra. Hành vi truyền HIV được coi là rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng trong phạm vi của pháp luật, so với hành vi lây truyền HIV, mặc dù cả hai đều được xem là vi phạm tội.

Hình phạt 02 khung hình phạt:

– Khung 1:  Phạt tù từ 01 năm đến 03 năm đối với người nào biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền HIV cho người khác, trừ trường hợp nạn nhân đã biết về tình trạng nhiễm HIV của người bị HIV và tự nguyện quan hệ tình dục.

– Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm khi người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: Đối với 02 người trở lên; đối với người dưới 18 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 145 của Bộ luật này; đối với phụ nữ mà biết là có thai; đối với thầy thuốc hoặc nhân viên y tế trực tiếp chữa bệnh cho mình; đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

03 Khung hình phạt:

Khung 1: Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm đối với người nào cố ý truyền HIV cho người khác.

Khung 2: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm khi người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: Có tổ chức; đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; đối với người dưới 18 tuổi; đối với từ 02 người đến 05 người; lợi dụng nghề nghiệp; gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 31% đến 60%.

Khung 3: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân  khi người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau: đối với phụ nữ mà biết là có thai; đối với 06 người trở lên; gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 61% trở lên; làm nạn nhân tự sát.

– Hình phạt bổ sung, người phạm tội có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.


TUYET NHUNG LAW cung cấp đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp và giàu kinh nghiệm xử lý các vụ án trên thực tế. Liên hệ tư vấn hoặc mời luật sư bào chữa vui lòng liên hệ số điện thoại hotline: 0975.982.169 hoặc gửi yêu cầu qua email: buinhunglw2b@gmail.com để được hỗ trợ.

Theo dõi chúng tôi trên
CÙNG CHỦ ĐỀ
Gọi luật sư Gọi luật sư Yêu cầu gọi lại Yêu cầu dịch vụ