1. Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi Điều 144
“Điều 144. Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
1. Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đang ở trong tình trạng lệ thuộc mình hoặc trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
2.[57] Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Có tính chất loạn luân;
b) Làm nạn nhân có thai;
c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
d) Phạm tội 02 lần trở lên;
đ) Đối với 02 người trở lên;
e) Tái phạm nguy hiểm.
3.[58] Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Nhiều người cưỡng dâm một người;
b) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
c) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
d) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
(Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017)
2. Cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là gì?
Là việc người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đang ở trong tình trạng lệ thuộc mình hoặc trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác.
Ảnh minh hoạ
3. Cấu thành tội phạm?
3.1. Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan là khi người phạm tội sử dụng mọi biện pháp để ép buộc nạn nhân, người đang phụ thuộc vào họ, hoặc nạn nhân đang trong tình cảnh khó khăn hoặc không có khả năng tự bảo vệ, phải thực hiện quan hệ tình dục một cách miễn cưỡng.
Sự phụ thuộc có thể bao gồm sự phụ thuộc về vật chất như việc được cung cấp nuôi dưỡng, chăm sóc và hỗ trợ về mặt vật chất giữa người chăm sóc và người được chăm sóc; về mặt xã hội như quan hệ giữa giáo viên và học sinh; và về mặt gia đình như quan hệ giữa cha mẹ và con. Cần lưu ý rằng trong quan hệ gia đình, nếu quan hệ tình dục không có sự ép buộc từ phía người con mà là tự nguyện từ cả hai bên, thì sẽ vi phạm quy định về tội loạn luân theo Điều 184 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung vào năm 2017.
Tình trạng quẫn bách là tình trạng nạn nhân đang gặp khó khăn lớn khóa khắc nếu không nhờ đến sự hỗ trợ của người khác thì tự họ rất khó khắc phục được như trường hợp người thân mắc bệnh hiểm nghèo, bị tai nạn nhưng gia đình khó khăn không có tiền hoặc vay mượn được tiền để chạy chữa.
Tình trạng không thể kháng cự lại như nạn nhân đi học về khuya một mình hoặc đang ở một mình nơi vắng vẻ bị dọa nạt, khống chế ép phải cho quan hệ tình dục.
Một vấn đề cần chú ý nữa là nạn nhân phải miễn cưỡng giao cấu do các thủ đoạn xảo quyệt của người phạm tội, tuy nhiên nạn nhân có thể từ chối việc giao cấu. Đây là điểm phân biệt giữa tội cưỡng dâm và tội hiếp dâm.
Nạn nhân phải là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Việc xác định tuổi của trẻ phải căn cứ vào giấy tờ khai sinh.
3.2. Mặt khách thể của tội phạm
Tội phạm xâm phạm sự phát triển bình thường về sinh lý và thể chất, danh dự, nhân phẩm của nạn nhân, đồng thời xâm hại quyền bất khả xâm phạm về tình dục của người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
3.3. Mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.
3.4. Mặt chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm Cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là người có trách nhiệm năng lực hình sự và từ đủ 14 tuổi trở lên.
4. Hình phạt đối với tội này?
Khung | Áp dụng với hành vi |
Khung 1: Phạt từ 5 đến 10 năm tù. | Đối với người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đang ở trong tình trạng lệ thuộc mình hoặc trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác |
Khung 2: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm tù. | – Có tính chất loạn luân; – Làm nạn nhân có thai; – Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; – Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%; – Phạm tội 02 lần trở lên; – Đối với 02 người trở lên; – Tái phạm nguy hiểm. |
Khung 3: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. | – Nhiều người cưỡng dâm một người; – Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; – Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên; – Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; – Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. |
Hình phạt bổ sung | Ngoài hình phạt tù người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
5. Quy định về xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi
Nghị Quyết số: 06/2019/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019 của Hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số Điều của Bộ luật Hình sự và việc xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi. Cụ thể một số nội dung sau:
1. Nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội xâm hại tình dục
– Tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự.
– Áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với các hành vi vi phạm luân thường, đạo đức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; lợi dụng nghề nghiệp, công việc; xâm hại người dưới 13 tuổi.
– Áp dụng các hình phạt bổ sung cao nhất theo quy định của Bộ luật Hình sự và các đạo luật khác có liên quan. Trong trường hợp cần thiết có thể cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề liên quan đến người dưới 16 tuổi.
2. Tổ chức xét xử vụ án xâm hại tình dục có bị hại là người dưới 18 tuổi
– Thời hạn xét xử vụ án xâm hại tình dục có bị hại là người dưới 18 tuổi được thực hiện như sau:
+ Áp dụng thủ tục rút gọn đối với các trường hợp đủ điều kiện theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
+ Đưa các vụ án khác ra xét xử trong thời hạn không quá ½ thời hạn pháp luật cho phép đối với các trường hợp tương ứng.
– Khi xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi, Tòa án phải thực hiện:
+ Xét xử kín, tuyên án công khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Khi tuyên án, Hội đồng xét xử chỉ đọc phần quyết định trong bản án.
+ Phân công Thẩm phán có kiến thức hoặc kinh nghiệm xét xử các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi.
+ Khi tham gia xét xử, Thẩm phán mặc trang phục làm việc hành chính của Tòa án nhân dân, không mặc áo choàng.
+ Xử án tại Phòng xét xử thân thiện theo đúng quy định tại Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC ngày 28 tháng 7 năm 2017 và Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC ngày 21 tháng 9 năm 2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
+ Có sự tham gia của người đại diện, người giám hộ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi.
– Khi xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi, căn cứ vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, Tòa án cần thực hiện:
+ Hạn chế triệu tập bị hại là người dưới 18 tuổi đến phiên tòa nếu vẫn giải quyết được vụ án bằng việc áp dụng các biện pháp thay thế khác (ví dụ: sử dụng lời khai của họ ở giai đoạn điều tra, truy tố; mời họ đến Tòa án hoặc địa điểm hợp pháp khác để lấy lời khai trước bằng văn bản, bằng ghi âm, ghi hình có âm thanh…).
+ Trường hợp phải triệu tập bị hại là người dưới 18 tuổi đến phiên tòa, Tòa án cần tạo điều kiện để họ làm quen, tiếp xúc với môi trường Tòa án, với quy trình và thủ tục xét xử; bố trí cho họ ngồi ở phòng cách ly và sử dụng các thiết bị điện tử (ví dụ: micro, loa, ti vi, camera…) để không làm ảnh hưởng đến tâm lý của họ khi họ khai báo, tham gia tố tụng tại phiên tòa; trường hợp không bố trí được phòng cách ly thì để họ ngồi ở phòng xử án nhưng phải có màn che ngăn cách với khu vực của bị cáo và khoảng cách giữa Hội đồng xét xử với người bị hại là người dưới 18 tuổi không quá 03 mét.
+ Câu hỏi đối với bị hại là người dưới 18 tuổi phải phù hợp với lứa tuổi, mức độ phát triển, trình độ văn hóa, hiểu biết của họ. Câu hỏi cần ngắn gọn, rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu; không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc; chỉ đặt câu hỏi làm rõ tình tiết vụ án; không đặt câu hỏi chỉ để tranh luận. Câu hỏi đối với bị hại dưới 10 tuổi không quá 10 từ và thời gian hỏi không liên tục quá 01 giờ.
+ Sử dụng sơ đồ hoặc mô hình cơ thể có đánh số thứ tự các bộ phận để người bị hại là người dưới 18 tuổi xác định các bộ phận bị xâm hại.
+ Khi bị cáo đề nghị được hỏi bị hại là người dưới 18 tuổi thì phải chuyển câu hỏi cho người bào chữa hoặc Hội đồng xét xử hỏi.
– Khi xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi, Tòa án không được:
+ Yêu cầu bị hại là người dưới 18 tuổi tường thuật lại chi tiết quá trình phạm tội.
+ Sử dụng câu hỏi có tính chất công kích, đe dọa, gây xấu hổ, xúc phạm bị hại.
+ Đối chất giữa bị hại với người phạm tội tại phiên tòa.
+ Xác định bộ phận bị xâm hại bằng cách để bị hại là người dưới 18 tuổi chỉ trực tiếp vào bộ phận cơ thể của mình hoặc của người khác.
+ Để bị cáo hỏi trực tiếp bị hại là người dưới 18 tuổi.
+ Buộc bị hại là người dưới 18 tuổi phải đứng khi tham gia tố tụng tại phiên tòa.
+ Công khai bản án, quyết định của Tòa án liên quan đến vụ án trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án.
– Tòa án phải xem xét và đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo vệ phù hợp theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự khi bị hại, người thân thích của bị hại yêu cầu hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền kiến nghị bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của bị hại, người thân thích của họ.
– Tuân thủ các quy định khác của Bộ luật Tố tụng hình sự; hướng dẫn tại Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC ngày 21/9/2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Thông tư liên tịch số: 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và các văn bản hướng dẫn thi hành khác có liên quan.
3. Các trường hợp loại trừ xử lý hình sự
– Không xử lý hình sự theo quy định tại Điều 146 (Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi) của Bộ luật Hình sự nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
+ Người trực tiếp chăm sóc, giáo dục người dưới 10 tuổi, người bệnh, người tàn tật, có hành vi tiếp xúc với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của họ nhưng không có tính chất tình dục (ví dụ: cha, mẹ tắm rửa, vệ sinh cho con dưới 10 tuổi; giáo viên mầm non tắm rửa, vệ sinh cho trẻ mầm non…).
+ Người làm công việc khám, chữa bệnh, chăm sóc y tế; người cấp cứu, sơ cứu người bị nạn có hành vi tiếp xúc với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác của người dưới 16 tuổi nhưng không có tính chất tình dục (ví dụ: bác sĩ khám, chữa bệnh cho bệnh nhân; sơ cứu, cấp cứu người bị tai nạn, người bị đuối nước…).
– Không xử lý hình sự theo quy định tại Điều 147 (Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm) của Bộ luật Hình sự đối với trường hợp người làm công tác giáo dục, khám, chữa bệnh, chăm sóc y tế mô tả bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của con người vì mục đích giáo dục, khám, chữa bệnh, chăm sóc y tế.
Nghị quyết có hiệu lực thi hành kể từ ngày 05/11/2019. Trường hợp người phạm tội đã bị xét xử trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực theo đúng các quy định, hướng dẫn trước đây và bản án đã có hiệu lực pháp luật thì không căn cứ vào Nghị quyết này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
TUYET NHUNG LAW cung cấp đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp và giàu kinh nghiệm xử lý các vụ án trên thực tế. Liên hệ tư vấn hoặc mời luật sư bào chữa vui lòng liên hệ theo số điện thoại hotline: 0975.982.169 hoặc gửi yêu cầu qua email: buinhunglw2b@gmail.com để được hỗ trợ.