Tội đánh tráo người dưới 01 tuổi Điều 152?
Bài viết này đề cập đến các nội dung pháp lý liên quan đến tội đánh tráo người dưới 01 tuổi? Phân biệt tội này với tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi? Hiểu như thế nào là đánh tráo người dưới 01 tuổi? Cấu thành của tội này và khung hình phạt áp dụng ra sao sẽ được làm rõ trong bài viết này.
1. Tội đánh tráo người dưới 01 tuổi Điều 152?
Tội đánh tráo người dưới 01 tuổi được quy định tại Điều 152 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 như sau:
“Điều 152. Tội đánh tráo người dưới 01 tuổi
1. Người nào đánh tráo người dưới 01 tuổi[71], thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp;
c) Đối với người dưới 01 tuổi mà mình có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng;
d) Phạm tội 02 lần trở lên.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Tái phạm nguy hiểm.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Khái niệm đánh tráo người dưới 01 tuổi là gì?
Hành vi đánh tráo người dưới 01 tuổi là việc lấy một trẻ em và thay thế bằng một trẻ khác một cách lén lút. Thường thì hành vi này chỉ xảy ra đối với trẻ sơ sinh, đặc biệt là tại những địa điểm như nhà hộ sinh, bệnh viện…
3. Cấu thành tội phạm của tội này?
– Mặt khách thể:
Tội phạm đã thực hiện hành vi đánh tráo trẻ em, khiến trẻ em phải xa cách cha mẹ từ khi chưa đầy 01 tuổi, làm vi phạm quyền của trẻ được sống cùng cha mẹ ruột. Do đó, đối tượng bị tội phạm xâm phạm bao gồm quyền tự do, quyền được chăm sóc, giáo dục bởi cha mẹ ruột của trẻ dưới 01 tuổi, cũng như quyền quản lý, chăm sóc, giáo dục trẻ dưới 01 tuổi của cha mẹ.
– Mặt khách quan:
Hành vi của tội phạm thuộc mặt khách quan là đánh tráo người dưới 01 tuổi, tức là lấy một trẻ em và thay thế bằng một trẻ khác theo ý muốn của mình. Hành vi này thường xảy ra trong các nhà hộ sinh hoặc bệnh viện, đặc biệt là khi đứa trẻ mới sinh ra không đáp ứng mong muốn của cha mẹ, như mong muốn có con trai nhưng lại sinh con gái hoặc ngược lại. Có thể là cha mẹ của đứa trẻ, bác sĩ hoặc nhân viên y tế trong bệnh viện hoặc nhà hộ sinh, hoặc người khác thực hiện hành vi đánh tráo này.
Nạn nhân của tội phạm này là trẻ em dưới 01 tuổi. Để xác định tuổi của nạn nhân, luật pháp quy định các cơ sở xác định tuổi của nạn nhân như sau:
Sử dụng một trong các tài liệu sau: giấy chứng sinh, giấy khai sinh, chứng minh nhân dân, thẻ căn cước công dân, sổ hộ khẩu, hoặc hộ chiếu.
Trong trường hợp không thể xác định chính xác tuổi dựa trên các biện pháp hợp pháp, ngày, tháng, năm sinh sẽ được xác định như sau:
+ Nếu chỉ xác định được tháng nhưng không xác định được ngày, sẽ lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh.
+ Nếu chỉ xác định được quý nhưng không xác định được ngày và tháng, sẽ lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh.
+ Nếu chỉ xác định được nửa của năm nhưng không xác định được ngày và tháng, sẽ lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh.
+ Nếu chỉ xác định được năm nhưng không xác định được ngày và tháng, sẽ lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh.
Trong trường hợp không xác định được năm sinh, phải tiến hành giám định để xác định tuổi.
Tội phạm được coi là hoàn thành từ khi họ có hành vi nhằm mua, bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em. Nếu hậu quả của việc mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em chưa xảy ra, tội phạm sẽ được coi là chưa phạm tội.
– Mặt chủ thể:
Chủ thể của tội đánh tráo người dưới 01 tuổi là bất kỳ ai có đủ năng lực trách nhiệm hình sự từ 16 tuổi trở lên.
Đầu tiên, chủ thể của tội phạm có thể là bất kỳ ai, tuy nhiên, thực tế thường là chính cha mẹ ruột của trẻ em dưới 01 tuổi hoặc nhân viên trong cơ sở bệnh viện, nhà hộ sinh.
Thứ hai, theo quy định của Điều 16 Khoản 1 của Bộ luật Hình sự, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm về mọi loại tội phạm. Khoản 2 của Điều này chỉ quy định một số tội phạm mà người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự, nhất là các tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Mặc dù Khoản 2 của Điều 16 đã liệt kê các tội phạm mà người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng không bao gồm tội phạm đánh tráo người dưới 01 tuổi. Do đó, độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với tội đánh tráo người dưới 01 tuổi là từ 16 tuổi trở lên.
Thứ ba, chủ thể của tội phạm phải là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bao gồm cả năng lực nhận thức và năng lực tự chủ hành vi của mình.
– Mặt chủ quan:
4. Hình phạt đối với tội này?
Mức hình phạt của các tội này được phân thành hai khung như sau:
– Khung 1: Mức phạt tù từ 02 năm đến 05 năm, áp dụng cho những trường hợp phạm tội đủ các điều kiện cơ bản như mô tả ở mặt khách quan.
– Khung 2: Mức phạt tù từ 03 năm đến 07 năm áp dụng cho các trường hợp phạm tội sau đây:
+ Có tổ chức;
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp;
+ Đối với người dưới 01 tuổi mà mình có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng;
+ Phạm tội 02 lần trở lên.
– Khung 3: Mức phạt tù từ 07 năm đến 12 năm áp dụng cho các trường hợp phạm tội sau đây:
+ Có tính chất chuyên nghiệp;
+ Tái phạm nguy hiểm.
5. Phân biệt tội đánh tráo người dưới 01 tuổi và tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi?
Tiêu chí | Tội đánh tráo người dưới 01 tuổi | Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi |
Cơ sở pháp lý | Được quy định tại Điều 152 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 như sau: 1. Người nào đánh trảo người dưới 01 tuổi, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: a) Có tổ chức; b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp; c) Đối với người dưới 01 tuổi mà mình có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng; d) Phạm tội 02 lần trở lên. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm: a) Có tính chất chuyên nghiệp; b) Tái phạm nguy hiểm. 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. | Được quy định tại Điều 153 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 như sau: 1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ người dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: a) Có tổ chức; b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp; c) Đổi với người mà mĩnh có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng; d) Đối với từ 02 người đến 05 người; đ) Phạm tội 02 lần trở lên; e) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm: a) Có tính chất chuyên nghiệp; b) Đoi với 06 người trở lên; c) Gây thương tích, gây ton hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tốn thương cơ thể 61% trở lên; d) Làm nạn nhân chết; đ) Tái phạm nguy hiểm. 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
Mặt chủ thể | Người từ đủ 16 tuổi trở lên là chủ thể của tội đánh tráo người dưới 01 tuổi, vì tội này không nằm trong các tội mà độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự có thể từ đủ 14 tuổi trở lên, như được liệt kê tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật hình sự. | Chủ thể của tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi là người bình thường, theo Điều 12 của Bộ luật hình sự, là người từ đủ 16 tuổi trở lên, vì tội này không thuộc các tội mà độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự có thể từ đủ 14 tuổi trở lên được liệt kê tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật hình sự. |
Mặt khách quan | Hành vi khách quan của tội phạm này được quy định là hành vi đánh tráo giữa các trẻ em dưới 01 tuổi với nhau. Đó là hành vi thay đổi trẻ em dưới 01 tuổi này bằng trẻ em dưới 01 tuổi khác, gây ra sự nhầm lẫn về danh tính của các trẻ em. Bố mẹ hoặc người chịu trách nhiệm của trẻ em bị đánh tráo có thể đều bị mắc kẹt trong tình huống nhầm lẫn, và có thể một trong số họ là tội phạm (thực hiện trực tiếp hành vi đánh tráo hoặc kích động người khác thực hiện), do đó không phải là người bị mắc kẹt. Theo luật này, đối tượng của tội phạm chỉ có thể là trẻ em dưới 01 tuổi. Chỉ ở độ tuổi này, hành vi đánh tráo mới có thể gây ra sự nhầm lẫn giữa các đối tượng với nhau. | Khoản 1 của điều luật quy định hành vi khách quan của tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi có thể là: Hành vi chiếm giữ người dưới 16 tuổi hoặc hành vi giao cho người khác chiếm giữ người dưới 16 tuổi. Trong đó, hành vi chiếm giữ được hiểu là hành vi (cố ý) cách ly trái phép người dưới 16 tuổi khỏi sự quản lý của gia đình hoặc người quản lý hợp pháp và thiết lập sự quản lý đó cho mình hoặc người khác. Thủ đoạn thực hiện hành vi chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ người dưới 16 tuổi có thể được thực hiện bằng các thủ đoạn khác nhau. Điều luật không giới hạn các thủ đoạn này mà chỉ liệt kê 2 thủ đoạn cụ thể có thể được sử dụng là thủ đoạn dùng vũ lực, thủ đoạn đe dọa dùng vũ lực và xác định tất cả các thủ đoạn khác đều có thể là thủ đoạn phạm tội của tội này. Ở đây, thủ đoạn khác có thể là thủ đoạn lén lút, thủ đoạn lừa dối… Trong các thủ đoạn như vậy có thể có thủ đoạn thể hiện là hành vi khách quan cụ thể như hành vi dùng vũ lực, hành vi đe dọa dùng vũ lực hoặc hành vi lừa dối… Khi đó, cũng có thể coi hành vi khách quan của tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi không chỉ là hành vi chiếm giữ người dưới 16 tuổi hoặc hành vi giao cho người khác chiếm giữ người dưới 16 tuổi mà còn gồm cả hành vi dùng vũ lực; hành vi đe dọa dùng vũ lực hoặc hành vi lừa dối V.V.. Bên cạnh đó cũng có thủ đoạn phạm tội không thể là hành vi cụ thể như thủ đoạn lén lút và khi đó hành vi khách quan của tội phạm này chỉ là hành vi chiếm giữ người dưới 16 tuổi hoặc hành vi giao cho người khác chiếm giữ người dưới 16 tuổi. |
Mặt chủ thể | Lỗi của chủ thể được quy định là lỗi cố ý. Trường hợp nhân viên cơ sở y tế vô tình trao nhầm các đứa trẻ hoặc trường hợp người mẹ bế nhầm con người khác đều không thuộc tội danh này vì họ chỉ có thể mắc lỗi vô ý. | Lỗi của chủ thể được quy định là lỗi cố ý. |
Hình phạt | Khoản 1 của điều luật quy định khung hình phạt cơ bản là từ 02 năm đến 05 năm tù giam. Khoản 2 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng thứ nhất, với mức phạt tù từ 03 năm đến 07 năm, được áp dụng trong các trường hợp sau đây: Có tổ chức: Đây là khi có sự cấu kết chặt chẽ giữa các đồng phạm trong việc đánh tráo người dưới 01 tuổi. Có tính chất chuyên nghiệp: Đây là khi người phạm tội coi việc đánh tráo là nguồn thu nhập chính. | Khoản 1 của điều luật quy định khung hình phạt cơ bản từ 03 năm đến 07 năm tù giam. Khoản 2 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng thứ nhất, với mức phạt từ 05 năm đến 10 năm tù giam, áp dụng cho các trường hợp có một trong các tình tiết sau: + Có tổ chức: Khi có sự cấu kết chặt chẽ giữa các đồng phạm trong việc chiếm đoạt người dưới 16 tuổi. + Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp: Khi người phạm tội sử dụng vị trí của mình để chiếm đoạt người dưới 16 tuổi. + Chiếm đoạt người dưới 16 tuổi mà mình có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng: Khi có mối quan hệ đặc biệt giữa người phạm tội và nạn nhân. + Chiếm đoạt từ 02 người đến 05 người: Khi có nhiều nạn nhân trong một hoặc nhiều lần phạm tội khác nhau. + Phạm tội 02 lần trở lên: Khi chủ thể đã chiếm đoạt nhiều lần trong cùng thời gian hoặc ở các thời gian khác nhau. + Gây thương tích, tổn hại sức khỏe hoặc rối loạn tâm thần và hành vi với tỷ lệ tổn thương từ 31% đến 60%. Khoản 3 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng thứ hai, với mức phạt từ 10 năm đến 15 năm tù giam, áp dụng cho các trường hợp có một trong các tình tiết sau: + Có tính chất chuyên nghiệp: Khi người phạm tội coi việc chiếm đoạt là nguồn thu nhập chính. + Chiếm đoạt từ 06 người trở lên: Khi có nhiều hơn 06 nạn nhân. + Gây thương tích, tổn hại sức khỏe hoặc rối loạn tâm thần và hành vi với tỷ lệ tổn thương từ 61% trở lên. + Gây tử vong cho nạn nhân với lỗi vô ý. + Tái phạm nguy hiểm: Khi phạm tội thỏa mãn các điều kiện tái phạm nguy hiểm. Khoản 4 của điều luật quy định khung hình phạt bổ sung (có thể áp dụng) bao gồm phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |