Tội gây thương tích cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ Điều 137

1. Tội gây thương tích cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ Điều 137

“Điều 137. Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ
1. Người nào trong khi thi hành công vụ dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Đối với 02 người trở lên, mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

2. Gây thương tích cho sức khoẻ của người khác trong khi thi hành công vụ là gì?

Người thi hành công vụ bao gồm cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, hạ sĩ quan, và chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, được cơ quan, tổ chức, hoặc cá nhân có thẩm quyền giao phó nhiệm vụ và quyền hạn, theo quy định của pháp luật, với sự bảo vệ của pháp luật, nhằm phục vụ lợi ích của Nhà nước, nhân dân, và xã hội (theo Khoản 1 Điều 3 Nghị định số: 208/2013/NĐ-CP).

Gây thương tích cho người thi hành công vụ là hành động gây tổn thương hoặc gây hại cho một người đang thực hiện một nhiệm vụ liên quan đến công việc hoặc trách nhiệm của họ. Điều này có thể bao gồm việc tấn công hoặc có ý định gây thương tích cho cảnh sát, nhân viên y tế, giáo viên, công chức hoặc bất kỳ ai đang hoạt động trong ngành công vụ. Hành vi này thường được xem là vi phạm pháp luật và có thể dẫn đến trách nhiệm hình sự đối với người gây thương tích.

3. Cấu thành tội phạm đối với tội này?

3.1. Mặt khách quan của tội phạm

Về hành vi:

Hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong tội phạm này là việc sử dụng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép khi thi hành công vụ.

Về hậu quả:

Hậu quả của tội phạm này là gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác, với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở lên. Tỷ lệ tổn thương cơ thể bao gồm tỷ lệ tổn hại sức khỏe, tỷ lệ thương tật, tỷ lệ thương tích, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích, bệnh, tật. Được xác định theo % tổn thương cơ thể quy định chi tiết tại Phụ lục 01 Thông tư 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 về tỷ lệ thương tổn cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần.

Về mối quan hệ nhân quả:

Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nói trên là dấu hiệu bắt buộc của sự cấu thành tội phạm này. Hành vi sử dụng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép khi thi hành công vụ cần phải gây ra hậu quả là gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở lên.

3.2. Mặt khách thể của tội phạm

Tội phạm này là vi phạm quyền được bảo vệ về sức khỏe của con người.

3.3. Mặt chủ quan của tội phạm

Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý gián tiếp, và động cơ phạm tội là hành động vì lợi ích chung của Nhà nước, xã hội, hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Người phạm tội sử dụng vũ lực trong khi thi hành công vụ, hoàn toàn nhận thức về mức độ nguy hiểm của hành vi. Họ nhìn thấy trước hậu quả có thể gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người phạm tội, và mặc dù không mong muốn hậu quả đó xảy ra, nhưng vẫn có ý thức bỏ mặc để hậu quả tự xảy ra.

3.4. Mặt chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ 16 tuổi, đặc biệt họ phải là người có quyền và nghĩa vụ thi hành công vụ.

Họ là những người đang thi hành công vụ nói chung, người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao. Ngoài ra, những công dân được huy động làm nhiệm vụ như: tuần tra, canh gác, bảo vệ theo kế hoạch của các cơ quan có thẩm quyền hoặc công dân, vì lợi ích chung của xã hội mà đã sử dụng một loại công cụ nào đó để giúp sức người thi hành công vụ ngăn chặn hoặc đuổi bắt người phạm tội, do đó xâm phạm sức khỏe của người khác thì cũng được coi là người thi hành công vụ.

Chủ thể của tội phạm là người từ đủ 16 tuổi, bản thân người có thẩm quyền, nghĩa vụ thực hiện công vụ đều là người từ đủ 18 tuổi trở lên (ví dụ như công an, bộ đội, người làm việc trong cơ quan Nhà nước,…), trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị xét xử về tội phạm này chỉ có thể là người giúp sức cho người thi hành công vụ ngăn chặn hoặc đuổi bắt người phạm tội mà xâm phạm đến sức khỏe người phạm tội. Vì lẽ đó, Khoản 1 Điều 12 Bộ luật Hình sự quy định chủ thể của tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ là người từ đủ 16 tuổi.

Chủ thể của tội phạm cũng phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự bao gồm năng lực nhận thức và năng lực làm chủ hành vi. Thực tế, một người được giao trọng trách thực hiện công việc chung vì lợi ích của cộng đồng, Nhà nước phải là một người có tài năng, có đạo đức, vì vậy, bản thân họ đều có đầy đủ năng lực nhận thức cũng như năng lực làm chủ hành vi.

Trong trường hợp người giúp sức giúp lực lượng cán bộ thi hành công vụ, hay nhiều người đang thi hành công vụ mà họ cùng gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì không bị coi là vụ án đồng phạm hay phạm tội có tổ chức. Bởi lẽ vụ án đồng phạm cần phải có sự bàn bạc, cùng lên kế hoạch hướng thới mục đích cùng thực hiện tội phạm còn trường hợp nhiều người cùng gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong thi hành công vụ, họ không có sự bàn bạc hay lên kế hoạch trước, mục đích của họ thi sử dụng vũ lực cũng là để hoàn thành công vụ.

4. Hình phạt đối với tội này?

Theo quy định tại Điều 137 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi 2017 quy định hình phạt của tội này như sau:

Hình phạt Hành vi
Cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm Người nào trong khi thi hành công vụ dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%

 

Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau:
– Đối với 02 người trở lên, mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
– Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ.

5. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự

Theo quy định tại Điều 27 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi 2017, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là khoảng thời gian mà Bộ luật quy định, và khi hết thời hiệu đó, người phạm tội sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Cụ thể, thời hiệu này được xác định như sau:

– 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng;

– 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng;

– 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng;

– 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự bắt đầu tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Trong trường hợp người phạm tội tái phạm và hành vi mới bị xử lý với mức cao nhất của hình phạt là tù 01 năm trở lên, thì thời hiệu đối với tội cũ được tính lại từ ngày thực hiện hành vi mới.

Nếu người phạm tội cố tình trốn tránh và bị truy nã trong thời hiệu quy định, thì thời hiệu tính lại từ thời điểm người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ.


TUYET NHUNG LAW cung cấp đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp và giàu kinh nghiệm xử lý các vụ án trên thực tế. Liên hệ tư vấn hoặc mời luật sư bào chữa vui lòng liên hệ theo số hotline: 0975.982.169 hoặc gửi yêu cầu qua email: buinhunglw2b@gmail.com để được hỗ trợ.

Theo dõi chúng tôi trên
CÙNG CHỦ ĐỀ
Gọi luật sư Gọi luật sư Yêu cầu gọi lại Yêu cầu dịch vụ