Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng Điều 126
1. Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng Điều 126
“Điều 126. Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội
1. Người nào giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội đối với 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.”
(Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017)
2. Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là gì?
Giết người xảy ra khi hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong tình huống vượt quá mức cần thiết trong quá trình bắt giữ người phạm tội. Hành vi này được hiểu là có chủ ý tước đoạt tính mạng của người đang thực hiện hành vi xâm phạm lợi ích của nhà nước, tổ chức, hoặc lợi ích chính đáng của bản thân hoặc người khác một cách không cần thiết.
Việc xác định các dấu hiệu của tội phạm này tất yếu phải dựa trên các quy định về phòng vệ chính đáng được quy định tại Điều 22 của Bộ luật Hình sự. Vì thiếu đi phòng vệ chính đáng, không thể có khái niệm vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
Phòng vệ chính đáng được mô tả tại Điều 22 Bộ luật Hình sự như sau: “Phòng vệ chính đáng là hành vi của người bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của bản thân hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.” Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã cung cấp hướng dẫn chi tiết về cách áp dụng chế định này trong Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986.
Điều này nên được hiểu rõ rằng, phòng vệ chính đáng không chỉ là việc đáp ứng đối đầu hoặc chống trả, mà còn có khả năng ngăn chặn và bảo vệ tích cực trước sự xâm phạm. Hành vi phòng vệ cần phải thực hiện một cách cần thiết, và không có sự chênh lệch quá mức đối với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm.
Nhìn chung, sau khi thực hiện một xét xử cân nhắc, có thể rõ ràng nhận thức được nếu hành vi phòng vệ đã sử dụng các phương tiện và phương pháp vượt quá giới hạn cần thiết, và đã tạo ra thiệt hại lớn hơn so với hành vi xâm phạm, thì có thể coi đó là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Tuy nhiên, đối với những tình tiết khác nhau, đôi khi có thể xuất hiện những quan điểm khác nhau về việc áp dụng chế định phòng vệ chính đáng.
3. Cấu thành tội Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng?
3.1. Về mặt khách quan của tội phạm
Về mặt khách quan của tội phạm giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được thể hiện thông qua hành vi tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật, do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
Để xác định một hành vi là tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, cần phải xem xét các yếu tố sau:
– Nạn nhân đã thực hiện hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội và xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tổ chức, quyền và lợi ích chính đáng của người khác.
– Trong thời điểm xảy ra sự việc, sự xâm hại vào lợi ích hợp pháp của nạn nhân đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thực sự và ngay tức khắc cho những lợi ích hợp pháp cần bảo vệ.
– Hành vi của người phạm tội xuất phát từ việc thực hiện quyền phòng vệ chính đáng, gây thiệt hại cho chính người có hành vi xâm phạm.
– Trong quá trình thực hiện quyền phòng vệ chính đáng, người phạm tội đã chống trả một cách quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm, dẫn đến cái chết của nạn nhân.
Hậu quả của tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là cái chết của người bị tước đoạt tính mạng. Tội phạm này được xem là hoàn thành khi hậu quả chết người xảy ra.
Mặt khách quan của tội giết người do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội thể hiện qua hành vi của người bắt giữ khi sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, gây thiệt hại đến tính mạng của người bị bắt giữ. Điều này áp dụng cho trường hợp khi người bắt giữ không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết để bắt giữ người phạm tội, nhưng trong quá trình này, họ đã sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, dẫn đến cái chết của người bị bắt giữ. Điều này đã được bổ sung trong Điều 126 của Bộ luật hình sự năm 2015 để phù hợp với quy định về trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự “Gây thiệt hại do bắt giữ người phạm tội” quy định tại Điều 24 của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017.
3.2. Về mặt khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ tội phạm là người thực hiện hành vi này với mục đích bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể, hoặc bảo vệ lợi ích chính đáng của bản thân hoặc người khác. Họ đã chống trả lại một cách rõ ràng, nhưng vượt quá mức cần thiết, dẫn đến cái chết của người có hành vi xâm phạm các lợi ích được đề cập hoặc cái chết của người bị bắt giữ do áp dụng các biện pháp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ.
Tội phạm này không chỉ xâm phạm quyền sống của người khác mà còn vi phạm quyền phòng vệ chính đáng, theo quy định tại Điều 22, và quyền gây thiệt hại khi bắt giữ người phạm tội, được quy định tại Điều 24 của Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi 2017.
3.3. Về mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm được thực hiện với mong muốn cố ý (tức lỗi cố ý). Động cơ phạm tội nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân hoặc người khác, cũng như động cơ liên quan đến hành vi bắt giữ người phạm tội. Đây là những dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.
3.4. Về mặt chủ thể của tội phạm
4. Tội giết người do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội là gì?
Giết người do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ tội phạm là hành động của người bảo vệ lợi ích của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, hoặc bảo vệ lợi ích chính đáng của bản thân, của người khác, và có sự chống trả được thể hiện là vượt quá mức cần thiết, dẫn đến cái chết của người có hành vi xâm phạm các lợi ích đó. Hành vi này có thể xuất phát từ người bắt giữ người phạm tội, trong đó áp dụng các biện pháp vượt quá mức cần thiết, dẫn đến cái chết của người bị bắt giữ.
5. Cấu thành tội giết người do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội?
5.1. Về mặt khách thể của tội phạm
Hành vi giết người do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ tội phạm là hành động của người bảo vệ lợi ích của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, hoặc bảo vệ lợi ích chính đáng của bản thân, của người khác, và có sự chống trả được thể hiện là vượt quá mức cần thiết, dẫn đến cái chết của người có hành vi xâm phạm các lợi ích đó. Hành vi này có thể xuất phát từ người bắt giữ người phạm tội, trong đó áp dụng các biện pháp vượt quá mức cần thiết, dẫn đến cái chết của người bị bắt giữ.
5.2. Về mặt khách quan của tội phạm
Là hành vi của người thực hiện hành động vi phạm tội đã gây tổn thương đến tính mạng của người đó, được thực hiện thông qua việc sử dụng vũ lực một cách rõ ràng vượt quá mức cần thiết.
Để xác định liệu hành vi đó có cấu thành tội giết người do vượt quá mức cần thiết hay không, cần phải xem xét liệu hành động của người bắt giữ, trong quá trình thực hiện hành vi vi phạm tội, đã sử dụng vũ lực cần thiết để gây tổn thương cho người bị bắt giữ hay không. Nếu trong quá trình này người bắt giữ sử dụng vũ lực một cách rõ ràng vượt quá mức cần thiết, điều này có thể đưa ra cơ sở để xác định hành vi đó là cấu thành tội giết người do vượt quá mức cần thiết.
Ảnh minh hoạ
5.3. Về mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý, bao gồm lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp.
– Lỗi cố ý trực tiếp: Người thực hiện hành vi phạm tội nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi và mong muốn hậu quả xấu xảy ra do chính hành vi đó.
– Lỗi cố ý gián tiếp: Người thực hiện hành vi phạm tội nhận thức tính chất nguy hiểm của hành vi và nhìn thấy khả năng xảy ra hậu quả xấu, mặc dù không mong muốn hậu quả đó xảy ra, nhưng đã có ý thức để cho hậu quả đó xảy ra.
Động cơ phạm tội là yếu tố bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý. Động cơ phạm tội chỉ xuất hiện trong các trường hợp phạm tội cố ý, vì trong tội vô ý, người phạm tội không mong muốn thực hiện hành vi phạm tội. Động cơ có thể là một trong những yếu tố quyết định cấu thành tội phạm cơ bản hoặc làm tăng hoặc giảm nhẹ hình phạt.
Động cơ phạm tội giết người trong trường hợp do vượt quá mức cần thiết là bảo vệ lợi ích của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, hoặc bảo vệ lợi ích hợp pháp của bản thân, người khác. Tội giết người do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội sẽ chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 126 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), với điều kiện thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội giết người do vượt quá mức cần thiết về khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan.