Tội hành hạ người khác Điều 140

1. Tội hành hạ người khác Điều 140

“Điều 140. Tội hành hạ người khác
1. Người nào đối xử tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc mình nếu không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 185 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 31% trở lên[49];
c) Đối với 02 người trở lên.”

Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi 2017.

2. Hành hạ người khác là gì?

Đối xử tàn ác với người khác, bao gồm việc gây đau đớn về thể xác, đè nén tinh thần, và áp bức người bị lệ thuộc, đang vi phạm quyền được bảo vệ của họ, bao gồm quyền sức khỏe, tự do, và danh dự.

3. Cấu thành tội phạm?

3.1. Mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan của tội phạm bao gồm cả hành hạ và làm nhục người lệ thuộc. Trong đó, hành vi hành hạ gây ra đau đớn về thể xác và cảm giác áp đặt tinh thần như đánh đập, giam hãm, hạn chế ăn uống và áo quần. Trong khi đó, hành vi làm nhục làm cho nạn nhân cảm thấy vô giá trị, mất danh dự và nhân phẩm, thông qua chửi rủa, vu khống, hoặc lan truyền tin đồn xấu về họ. Tội hành hạ người khác, mặc dù tương tự với tội bức tử, nhưng nạn nhân không tự sát, do đó được coi là hành vi khách quan của tội bức tử. Thường xuyên, hành vi hành hạ kéo dài qua nhiều thời gian và gây đau đớn về cả thể xác và tinh thần cho nạn nhân. Tuy nhiên, các thương tích thể xác thường không đủ nặng để bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 134 của Bộ luật Hình sự.

Những nạn nhân của tội này thường là những người có mối quan hệ lệ thuộc với người phạm tội, nhưng không phải là ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người nuôi dưỡng họ. Trong trường hợp những người lệ thuộc bị ngược đãi là ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người nuôi dưỡng, hành vi này đã được pháp luật quy định riêng trong Điều 185 của Bộ luật Hình sự. Mối quan hệ lệ thuộc giữa người phạm tội và nạn nhân có thể bao gồm quan hệ công việc, thầy trò, tôn giáo hoặc quan hệ lao động. Thông thường, nạn nhân của tội này thường không dám phản ứng và chỉ tố cáo khi mối quan hệ lệ thuộc bị chấm dứt hoặc khi bị người khác tố cáo.

3.2. Mặt khách thể của tội phạm

Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người được coi là khách thể của tội phạm, và được Nhà nước bảo vệ.

3.3. Mặt chủ quan của tội phạm

Người thực hiện tội hành hạ người khác làm điều này với ý định gián tiếp, tức là họ không trực tiếp tấn công mà cố ý gây ra hậu quả bằng cách khác. Người phạm tội hiểu rõ mức độ nguy hiểm của hành vi mình thực hiện, nhận thức được rằng hành động của mình có thể gây tổn hại cho thể chất và tinh thần của người bị lệ thuộc. Mặc dù họ không mong muốn hậu quả nghiêm trọng xảy ra đối với người bị hại, nhưng vẫn có ý thức về việc hậu quả có thể xảy ra.

3.4. Mặt chủ thể của tội phạm

Chủ thể thực hiện tội phạm này có thể là bất kỳ ai đang giữ vai trò là người được lệ thuộc, đủ 16 tuổi và có năng lực trách nhiệm hình sự.

Đầu tiên, người thực hiện tội phạm có thể là cá nhân độc lập hoặc là thành viên của một nhóm tội phạm. Thực tế, nhiều vụ án tội phạm có tổ chức, với sự liên kết chặt chẽ giữa các đồng phạm. Các thành viên trong nhóm thường có vai trò rõ ràng, bao gồm người thực hiện hành vi trực tiếp, người tổ chức, người kích động và người hỗ trợ.

Thứ hai, chủ thể phải là người từ đủ 16 tuổi. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 12, người từ đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi loại tội. Mặc dù Khoản 2 Điều 12 quy định một số tội mà người từ đủ 14 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng không bao gồm tội hành hạ người khác tại Điều 140. Do đó, người từ đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm về tội hành hạ người khác.

Thứ ba, người thực hiện phải có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Điều này đòi hỏi họ phải có cả khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình. Trong trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc bị hạn chế về năng lực này, người đó có thể được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 21 của Bộ luật hình sự.

4. Khung hình phạt?

Khung Hình phạt
Khung 1 Những người có hành vi đối xử tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc mà không thuộc vào trường hợp ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình có thể bị phạt cải tạo không giam giữ trong khoảng thời gian không quá 3 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm.
Khung 2

Người phạm tội có thể bị phạt tù từ 1 đến 3 năm nếu rơi vào một trong các trường hợp sau đây:

– Nếu là người dưới 16 tuổi, phụ nữ mang thai, người già yếu, bị ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

– Nếu gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân và tỉ lệ tổn thương cơ thể đạt từ 31% trở lên;

– Nếu hành động ác ý đối với ít nhất 2 người.

5. So sánh với tội bức tử?

Tội bức tử Tội hành hạ người khác
+ Nguyên nhân dẫn đến việc nạn nhân tự sát là do hành vi của người phạm tội đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp ngược đãi hoặc làm nhục người đó.

+ Hành vi khách quan của tội bức tử phải dẫn đến hậu quả là người phạm tội tự sát, tức là, ,nạn nhân, có thể bằng nhiều phương pháp khác nhau, đã tự mình thực hiện việc tước đoạt tính mạng của chính mình như: thắt cổ, uống thuốc độc, nhảy xuống sông, đâm vào bụng, bắn vào đầu v.v…

+ Hành vi tự sát phải do chính nạn nhân thực hiện, trường hợp nạn nhân muốn chết nhưng lại không tự mình thực hiện hành vi mà nhờ người khác giúp thì không cấu thành tội phạm này

+ Hành vi tự sát không nhất thiết phải có hậu quả chết người

+ Không dẫn đến hậu quả nạn nhân tự sát

+ Nạn nhân của tội bức tử là những người lệ thuộc người phạm tội. Nạn nhân của tội làm nhục người khác là người lệ thuộc ngoài ông bà cha mẹ con cháu, hoặc người có công nuôi dưỡng người phạm tôi.

Khi một người có hành vi đối xử tàn ác, làm nhục người lệ thuộc mình, căn cứ vào hậu quả xảy ra để xác định tội danh. Nếu hậu quả dẫn đến việc người lệ thuộc tự sát thì cấu thành tội bức tử.

+ Trường hợp nạn nhân muốn chết nhưng lại không tự mình thực hiện hành vi mà nhờ người khác giúp thì không cấu thành tội phạm này mà cấu thành này

+ Trường hợp có hành vi đối xử tàn ác đối với người lệ thuộc mình là ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mà nạn nhân không tự sát thì cấu thành tội Điều 185.

6. So sánh với tội hành hạ ông bà, cha mẹ?

Theo quy định tại Điều 140 của Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017, tội hành hạ người khác xảy ra khi một người có hành vi đối xử tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc mình, nhưng không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 185 của Bộ luật Hình sự sửa đổi bổ sung 2017. Cụ thể:

– Đối xử tồi tệ hoặc có hành vi bạo lực xâm phạm thân thể của ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình;

– Thường xuyên làm nạn nhân phải chịu đau đớn về thể xác và tinh thần;

– Có lịch sử bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này.

Đối với những người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai, người già yếu, hoặc những người khuyết tật nặng, người phạm tội cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm pháp lý.

Tuy nhiên, nếu người phạm tội và nạn nhân có mối quan hệ như ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình, tội danh có thể được xem xét là Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình, và mức phạt có thể cao hơn, từ cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 03 năm, hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm, thậm chí là phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.


Quý khách hàng đang gặp phải bất kỳ vấn đề pháp lý nào hoặc cần tìm kiếm luật sư tham gia bào chữa vụ án. Xin vui lòng liên hệ với luật sư thông qua số điện thoại: 0975.982.169 hoặc qua email: buinhunglw2b@gmail.com. Chúng tôi sẵn sàng lắng nghe và cung cấp dịch vụ  chuyên nghiệp để giúp quý khách giải quyết mọi vấn đề một cách hiệu quả.

Luật sư Bùi Thị Nhung: