Tội mang thai hộ vì mục đích thương mại Điều 187
Bài viết đề cập đến nội dung liên quan đến Tội mang thai hộ vì mục đích thương mại Điều 187, Giải thích thế nào là mang thai hộ, cấu thành tội phạm và khung hình phạt đối với tội này sẽ được Công Ty Luật Tuyết Nhung Bùi giải đáp sử dụng vào mục đích tham khảo.
This article discusses the content related to the Crime of Commercial Surrogacy under Article 187, explaining what surrogacy is, the elements constituting the crime, and the penalties for this offense, as provided by Tuyet Nhung Bui Law Firm for reference purposes.
1. Tội mang thai hộ vì mục đích thương mại Điều 187
Hành vi tổ chức cho một người mang thai hộ cho người khác để lấy tiền sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội tổ chức mang thai hộ theo Điều 187 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật Hình sự):
“Điều 187. Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại
1. Người nào tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Đối với 02 người trở lên;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Lợi dụng danh nghĩa của cơ quan, tổ chức;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
[EN]
Offense of Commercial Surrogacy – Article 187
Organizing a surrogacy arrangement for monetary gain constitutes a criminal offense under Article 187 of the 2015 Penal Code, as amended and supplemented in 2017 (hereinafter referred to as the Penal Code):
“Article 187. Offense of Organizing Commercial Surrogacy
Any person who organizes surrogacy for commercial purposes shall be subject to a fine ranging from VND 50,000,000 to VND 200,000,000, non-custodial reform for up to 2 years, or imprisonment for 3 months to 2 years.
If the offense is committed under any of the following circumstances, the offender shall be subject to imprisonment for 1 to 5 years:
a) Involving two or more persons;
b) Committed two or more times;
c) Abusing the name of an agency or organization;
d) Dangerous recidivism.
The offender may also be subject to a fine ranging from VND 10,000,000 to VND 50,000,000, prohibition from holding certain positions, practicing certain professions, or performing specific jobs for 1 to 5 years.”
2. Hiểu thế nào về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo?
Tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại là hành vi một cá nhân hoặc tổ chức sắp xếp, môi giới để một người phụ nữ mang thai và sinh con cho người khác, với mục đích nhận tiền hoặc các lợi ích vật chất. Hành vi này bị pháp luật cấm vì nó có thể dẫn đến những hệ lụy đạo đức và xã hội nghiêm trọng, bao gồm nguy cơ mua bán trẻ em, lợi dụng phụ nữ và trẻ sơ sinh vì lợi ích kinh tế, ảnh hưởng đến quyền lợi và sức khỏe của các bên liên quan.
Theo Điều 3, khoản 23 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, “Mang thai hộ vì mục đích thương mại là việc một người phụ nữ mang thai cho người khác bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và nhận được lợi ích kinh tế hoặc các lợi ích vật chất khác”. Điều này cho thấy hành vi mang thai hộ trong trường hợp này không chỉ liên quan đến sự giúp đỡ về sinh sản mà còn được thực hiện vì mục đích lợi nhuận, tạo ra một “thị trường” trao đổi vật chất trong vấn đề mang thai và sinh con.
Ví dụ về hành vi mang thai hộ vì mục đích thương mại có thể là một cặp vợ chồng gặp khó khăn trong việc có con do hiếm muộn. Họ tìm đến một tổ chức hoặc môi giới để thuê một người phụ nữ mang thai thay cho mình. Cặp vợ chồng này sẽ trả tiền cho người phụ nữ để cô ấy mang thai và sinh con cho họ. Đây chính là hành vi tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại, trong đó người phụ nữ không phải là người mang thai vì mục đích giúp đỡ hay vì tình nghĩa, mà vì lợi ích vật chất.
Điều quan trọng là phải phân biệt giữa mang thai hộ vì mục đích thương mại và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Pháp luật Việt Nam hiện nay cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, tức là khi một người phụ nữ tự nguyện mang thai và sinh con cho cặp vợ chồng hiếm muộn mà không nhận bất kỳ lợi ích vật chất nào. Trong trường hợp này, người phụ nữ mang thai hộ sẽ được thụ tinh trong ống nghiệm từ tinh trùng của người chồng và noãn của người vợ, rồi cấy phôi vào tử cung của người mang thai hộ để cô ấy mang thai và sinh con cho cặp vợ chồng này.
[EN]
Understanding Surrogacy for Humanitarian Purposes
Organizing surrogacy for commercial purposes involves an individual or organization arranging or brokering for a woman to carry and give birth to a child for someone else, with the intention of receiving money or material benefits. This practice is prohibited by law due to the potential for serious ethical and social consequences, including the risk of child trafficking, the exploitation of women and infants for economic gain, and the impact on the rights and health of all parties involved.
According to Article 3, Clause 23 of the 2014 Marriage and Family Law, “Commercial surrogacy is when a woman carries a pregnancy for another person using assisted reproductive technology and receives economic or other material benefits.” This indicates that surrogacy in this context is not just about reproductive assistance but is conducted for profit, creating a “market” for the exchange of material goods related to pregnancy and childbirth.
An example of commercial surrogacy might involve a couple who have difficulty conceiving due to infertility. They may turn to an agency or mediator to hire a woman to carry their child. The couple would pay the woman to become pregnant and give birth to their child. This is an example of organizing surrogacy for commercial purposes, where the woman is not carrying the child out of goodwill or for humanitarian reasons but for material gain.
It is crucial to distinguish between surrogacy for commercial purposes and surrogacy for humanitarian reasons. Under current Vietnamese law, surrogacy for humanitarian purposes is allowed. This means when a woman voluntarily carries and gives birth to a child for an infertile couple without receiving any material benefits. In such cases, the woman is inseminated with the husband’s sperm and the wife’s egg through in vitro fertilization, and the embryo is implanted in the surrogate’s uterus for her to carry and deliver the child for the couple.

3. Cấu thành tội phạm
Để xác định tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại, các yếu tố pháp lý cấu thành tội phạm cần được phân tích theo các dấu hiệu như khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan của hành vi phạm tội. Các yếu tố này như sau:
3.1. Khách thể
Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại xâm phạm đến chế độ hôn nhân và gia đình mà pháp luật bảo vệ. Hành vi này làm ảnh hưởng đến các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ hôn nhân, gia đình, xâm phạm quyền của các cá nhân trong việc quyết định và tham gia vào các vấn đề liên quan đến sinh sản. Chế độ hôn nhân và gia đình được pháp luật bảo vệ nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của vợ chồng, con cái và các thành viên trong gia đình, cũng như giữ gìn đạo đức xã hội và sự phát triển bền vững của gia đình.
3.2. Mặt khách quan
Mặt khách quan của tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại được thể hiện qua hành vi tổ chức mang thai hộ, tức là hành động môi giới hoặc sắp xếp để một người phụ nữ mang thai và sinh con cho người khác với mục đích nhận tiền hoặc lợi ích vật chất. Hành vi này có thể bao gồm việc áp dụng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản như thụ tinh trong ống nghiệm hoặc các phương pháp sinh sản khác để giúp người khác có con, nhưng mục đích không phải vì nhân đạo mà là vì lợi ích tài chính hoặc vật chất. Đây là hành vi không chỉ xâm phạm đạo đức xã hội mà còn có thể dẫn đến những hệ quả xấu về mặt pháp lý, như sự hình thành một “thị trường” trẻ em và lợi dụng phụ nữ.
3.3. Chủ thể
Chủ thể của tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Theo Điều 12 Bộ luật Hình sự, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Những người tham gia vào việc tổ chức hành vi mang thai hộ vì mục đích thương mại phải có năng lực pháp lý đầy đủ để nhận thức rõ hành vi của mình và chịu trách nhiệm về hành vi đó. Nếu người phạm tội mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, họ sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
3.4. Mặt chủ quan
Về mặt chủ quan, người thực hiện hành vi tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại phải có lỗi cố ý, tức là họ nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và mong muốn hoặc chấp nhận hậu quả xảy ra. Theo Điều 10 Bộ luật Hình sự, có hai trường hợp thể hiện lỗi cố ý: Một là, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra; hai là, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn để mặc cho hậu quả đó xảy ra. Trong trường hợp này, người tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại sẽ chịu trách nhiệm hình sự nếu có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của pháp luật.
[EN]
Constituting Elements of the Offense
To determine the offense of organizing surrogacy for commercial purposes, the legal elements that constitute the crime need to be analyzed according to indicators such as the object, subject, objective aspect, and subjective aspect of the crime. These elements are as follows:
Object of the Crime
The crime of organizing surrogacy for commercial purposes infringes upon the family and marriage regime protected by law. This act affects the rights and obligations within family relationships, violating the rights of individuals in making decisions and participating in matters related to reproduction. The family and marriage regime protected by law ensures the legal rights of spouses, children, and other family members, while preserving social ethics and the sustainable development of the family.
Objective Aspect
The objective aspect of the crime of organizing surrogacy for commercial purposes is reflected in the act of arranging surrogacy, i.e., the act of brokering or organizing for a woman to carry and give birth to a child for someone else, with the intention of receiving money or material benefits. This act may involve the use of assisted reproductive technologies, such as in vitro fertilization or other reproductive methods, to help someone else have a child. However, the purpose is not humanitarian but financial or material gain. This behavior not only infringes upon social ethics but can also lead to negative legal consequences, such as the creation of a “market” for children and the exploitation of women.
Subject of the Crime
The subject of the crime of organizing surrogacy for commercial purposes includes any individual aged 16 or older who has full criminal responsibility. According to Article 12 of the Penal Code, individuals aged 16 and above are liable for criminal responsibility for all offenses, unless the Penal Code provides otherwise. Those involved in organizing surrogacy for commercial purposes must have full legal capacity to understand their actions and be held accountable for them. If the offender has a mental illness or other conditions that impair their ability to recognize and control their actions, they will not be prosecuted.
Subjective Aspect
In terms of the subjective aspect, the person committing the act of organizing surrogacy for commercial purposes must have intentional fault, meaning they are fully aware that their actions are socially dangerous and either desire or accept the consequences. According to Article 10 of the Penal Code, there are two cases reflecting intentional fault: first, the offender is aware that their actions are dangerous to society, anticipates the consequences, and desires those consequences to occur; second, the offender is aware that their actions are dangerous to society, anticipates possible consequences, and although they do not wish those consequences to occur, they allow them to happen. In this case, the person organizing surrogacy for commercial purposes will be held criminally responsible if all elements constituting the offense are present according to the law.
4. Khung hình phạt
Theo quy định của pháp luật hiện hành, mức hình phạt đối với tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại được chia thành hai khung hình phạt chính, với các mức xử lý cụ thể như sau:
Penalty Framework
According to current legal regulations, the penalty for the crime of organizing surrogacy for commercial purposes is divided into two main penalty brackets, with specific levels of punishment as follows:
Khung Frame | Mức phạt Penalty level | Hành vi Behavior |
Khung 1 Frame 1 | Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. A fine ranging from 50,000,000 VND to 200,000,000 VND, non-custodial rehabilitation for up to 2 years, or imprisonment for 3 months to 2 years. | Tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại. Organizing surrogacy for commercial purposes. |
Khung 2 Frame 2 | Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Imprisonment from 1 to 5 years. | Tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại thuộc một trong các trường hợp sau: a) Đối với 02 người trở lên; b) Phạm tội 02 lần trở lên; c) Lợi dụng danh nghĩa của cơ quan, tổ chức; d) Tái phạm nguy hiểm. Organizing surrogacy for commercial purposes falls under one of the following circumstances: a) Involving two or more people; b) Committing the offense two or more times; c) Exploiting the name of a government agency or organization; d) Committing a dangerous recidivism. |
Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Additional penalties: The offender may also be fined from 10,000,000 VND to 50,000,000 VND, prohibited from holding certain positions, prohibited from practicing certain professions, or prohibited from performing specific tasks for a period of 1 to 5 years. |
LUẬT TUYẾT NHUNG BÙI cung cấp đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp và giàu kinh nghiệm xử lý các vụ án hình sự trên thực tế. Liên hệ tư vấn các vấn đề liên quan đến hình sự hoặc mời luật sư bào chữa cho bị cáo; mời luật sư bảo vệ cho bị hại hoặc người có quyền lợi liên quan trong vụ án hình sự, vui lòng liên hệ số điện thoại/ zalo: 0975.982.169 hoặc gửi yêu cầu qua email: lienhe@tuyetnhunglaw.vn để được hỗ trợ và đưa ra những tư vấn kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng.