Tội mua bán người Điều 150
1. Tội mua bán người Điều 150
“Điều 150. Tội mua bán người
1.[67] Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác;
b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;
c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này.
2.[68] Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm:
a) Có tổ chức;
b) Vì động cơ đê hèn;
c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 Điều này;
d) Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
đ) Đối với từ 02 người đến 05 người;
e) Phạm tội 02 lần trở lên.
3.[69] Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
d) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát;
đ) Đối với 06 người trở lên;
e) Tái phạm nguy hiểm.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
(Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017)
2. Mua bán người là gì?
Theo Điều 2, Khoản 1 của Nghị quyết số: 02/2019/NQ-HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao, mua bán người bao gồm việc sử dụng vũ lực, đe dọa vũ lực, lừa dối hoặc các thủ đoạn khác để thực hiện một trong các hành vi sau đây:
– Chuyển nhượng người để nhận tiền, tài sản hoặc các lợi ích vật chất khác.
– Tiếp nhận người để trao đổi tiền, tài sản hoặc các lợi ích vật chất khác.
– Tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, chiếm đoạt bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác.
– Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi chuyển giao người như chuyển nhượng người để nhận tiền, tài sản hoặc các lợi ích vật chất khác và chuyển giao người cho người khác để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, chiếm đoạt bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác trong khoản này.
3. Cấu thành tội phạm?
3.1. Mặt khách quan
Điều 150 của Bộ Luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung vào năm 2017 quy định về tội mua bán người như sau: “Người nào sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực, lừa gạt hoặc thông qua các phương tiện khác để thực hiện một trong các hành vi sau đây sẽ bị phạt tù từ 5 đến 10 năm…”. Cụ thể, “mua” và “bán” trong luật đã được mô tả rõ thông qua những hành vi cụ thể mà tội phạm thường thực hiện, bao gồm: “Sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực hoặc thông qua các phương tiện khác” để tiến hành “Tuyển mộ”, “vận chuyển”, “chứa chấp” và “chuyển giao”, “tiếp nhận người” với mục đích mua bán người.
Trong quá trình tiến hành chiến đấu chống lại tội phạm này, nhiều trường hợp đã phát hiện các cán bộ thực thi pháp luật gặp khó khăn trong việc phân biệt rõ ràng giữa tội phạm mua bán người và các hình thức tội phạm khác như: tổ chức sự thoát nạn đi nước ngoài, môi giới mại dâm, môi giới kết hôn hoặc môi giới lao động. Do đó, việc xác định trước và trong quá trình thực hiện tội phạm mua bán người, xác định liệu đối tượng có sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực hoặc thông qua các phương tiện khác là cần thiết, sẽ giúp cho cơ quan điều tra nhận biết rõ ràng hành vi mua bán người, mà đặc điểm nổi bật là sự bạo lực, đe dọa, cưỡng bức hoặc lừa dối, và phân biệt rõ ràng giữa các loại tội phạm khác mà không có sự bạo lực hay sự đe dọa hoặc nếu có, thì tính chất của chúng cũng rất khác biệt.
3.2. Mặt khách thể
Xâm phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự, quyền tự do và quyền làm người của nạn nhân, xem con người như một món hàng để mua bán hoặc trao đổi với mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
3.3. Mặt chủ quan
Tội phạm mua bán người, được quy định ở Điều 119 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (đã sửa đổi và bổ sung vào năm 2009), được thực hiện với tinh thần cố ý trực tiếp, với mục đích chủ yếu là thu lợi, “trao người để lấy tiền”. Tuy nhiên, theo Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã sửa đổi và bổ sung vào năm 2017), ngoài việc tìm kiếm lợi ích, yếu tố chủ quan được phân biệt và thể hiện rõ sự nguy hiểm của tội phạm mua bán người bằng việc bổ sung mục đích là “bóc lột”: “Nhằm mục đích bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, chiếm đoạt bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích không nhân đạo khác”. “Lợi ích” mà tội phạm hướng tới không chỉ là tiền lợi từ việc mua bán người mà còn là những lợi ích lớn hơn, lâu dài từ việc “bóc lột” nạn nhân. Điều này cũng giúp phân biệt tội phạm mua bán người với một số loại tội phạm khác như tổ chức, cưỡng ép, hoặc xúi giục người khác trốn ra nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài để chống lại chính quyền nhân dân, như quy định tại Điều 120 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã sửa đổi và bổ sung vào năm 2017). Thực tế trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đã cho thấy một số trường hợp môi giới lao động hoặc kết hôn với yếu tố nước ngoài, mặc dù hình thức có dấu hiệu vi phạm tội mua bán người theo Điều 199 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (đã sửa đổi và bổ sung vào năm 2009), nhưng “nạn nhân” trong các trường hợp này không gặp tổn thất và không bị “bóc lột”. Trong những trường hợp này, việc xử lý tội phạm mua bán người có thể không hợp lý và không phục vụ mục đích của việc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
3.4. Mặt chủ thể
Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.
4. Hình phạt đối với tội này?
Khung hình phạt | Áp dụng đối với hành vi |
Khung 1: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. | Đối với người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác thực hiện một trong các hành vi sau đây: + Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; + Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; + Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác hoặc để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác. |
Khung 2: Phạt tù từ 08 năm đến 15 năm. | Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: + Có tổ chức; + Vì động cơ đê hèn; + Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, nếu không thuộc trường hợp đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; + Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; + Đối với từ 02 người đến 05 người; + Phạm tội 02 lần trở lên. |
Khung 3: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. | Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: + Có tính chất chuyên nghiệp; + Đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; + Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; + Làm nạn nhân chết hoặc tự sát; + Đối với 06 người trở lên; + Tái phạm nguy hiểm. |
Hình phạt bổ sung: | Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. |
5. Phân biệt tội mua bán người để lấy bộ phận cơ thể và mua bán người để chiếm đoạt mô, bộ phận cơ thể?
Nội dung | Tội mua bán người để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân | Tội mua bán, chiếm đoạt mô, bộ phận cơ thể người |
Căn cứ pháp lý | Điểm b Khoản 3 Điều 150 Bộ luật Hình sự | Điều 154 Bộ luật hình sự |
Khách thể | Hành vi mua bán người đề cập đến việc xem con người như là một mặt hàng có thể mua, bán hoặc trao đổi với mục đích thu lợi. Tội phạm này xâm phạm vào nhân phẩm, danh dự, và quyền tự do của con người, vì vậy, đối tượng của tội phạm này là quyền tự do, nhân phẩm, danh dự, và quyền được Nhà nước bảo vệ về thân thể, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người và sự an toàn của toàn xã hội. | Hành vi mua bán hoặc chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể của con người là vi phạm pháp luật vì nó can thiệp vào một phần của cơ thể con người khi họ vẫn còn sống. Tội phạm gây tổn thương trực tiếp đến tính mạng, thân thể, và sức khỏe của người khác, đồng thời tạo ra sự lo lắng và bức xúc trong cộng đồng. Do đó, đối tượng của tội phạm này là quyền sống và quyền được Nhà nước bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, và nhân phẩm của con người cũng như sự ổn định của xã hội. |
Mặt khách quan | Hành vi lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân trong tội mua bán người được đánh giá dưới góc độ mặt khách quan là việc sử dụng vũ lực, đe dọa bằng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác để tiến hành mua bán người nhằm lấy bộ phận cơ thể của họ. Việc lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân có thể xảy ra trong các tình huống như chuyển giao, tiếp nhận hoặc tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp nạn nhân nhằm mục đích lấy bộ phận cơ thể của họ. Bộ phận cơ thể này bao gồm các thành phần mô khác nhau cần thiết để thực hiện các chức năng sinh lý của con người, ví dụ như giác mạc. Ví dụ, Nguyễn Văn A có thể đã chuyển giao Nguyễn Thị C cho Nguyễn Văn B để lấy giác mạc của C, mặc dù thực tế B chưa thực hiện hành vi lấy giác mạc của C. Sử dụng vũ lực là một trong những hành vi trong tội mua bán người để lấy bộ phận cơ thể, có thể bao gồm việc giữ chân tay, bịt miệng, đánh đập, hoặc buộc buộc. Những hành động này thường nhằm vào việc làm suy yếu sự chống cự của nạn nhân, giúp tội phạm tiến hành mua bán người và lấy bộ phận cơ thể một cách dễ dàng hơn. Đe doạ dùng vũ lực là hành vi mà một cá nhân sử dụng từ ngôn từ hoặc hành động đe dọa tinh thần của người khác, tạo ra nỗi sợ hãi bằng cách đe dọa giết, đánh đập, hoặc sử dụng vũ khí, khiến người bị đe dọa cảm thấy lo lắng và bị ép buộc phải đồng ý với người phạm tội. Lừa gạt là hành vi sử dụng lời nói hoặc lợi ích vật chất để hứa hẹn với nạn nhân, thường để nạn nhân nghe theo ý của kẻ lừa đảo. Các thủ đoạn khác bao gồm những hành vi như bắt cóc, cho nạn nhân uống thuốc ngủ hoặc gây mê, hoặc làm nạn nhân mất khả năng nhận thức và kiểm soát hành vi bằng cách uống rượu, bia hoặc các chất kích thích mạnh khác; đầu độc nạn nhân; lợi dụng việc môi giới hôn nhân hoặc môi giới lao động ở nước ngoài; lợi dụng chức vụ hoặc quyền hạn; lợi dụng tình thế bị phụ thuộc hoặc tình trạng quẫn bách của nạn nhân (ví dụ: lợi dụng tình trạng nạn nhân có người thân bị bệnh hiểm nghèo cần tiền chữa trị ngay, nếu không sẽ nguy hiểm đến tính mạng) để thực hiện việc mua bán người để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân. Tội phạm được coi là hoàn thành khi hậu quả bộ phận cơ thể của nạn nhân bị lấy đi xảy ra. Trong trường hợp hậu quả này chưa xảy ra, người phạm tội vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người. | Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm bao gồm hai hành vi chính: mua bán và chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể của người. Mua bán mô hoặc bộ phận cơ thể người là hành vi trao đổi mô hoặc bộ phận cơ thể của người để nhận tiền, tài sản hoặc các lợi ích khác. Bên bán phải chuyển giao mô hoặc bộ phận cơ thể theo yêu cầu của bên mua, trong khi bên mua phải tiếp nhận và chi trả tiền, tài sản hoặc các lợi ích khác khi bên bán chuyển giao đúng mô hoặc bộ phận cơ thể như yêu cầu. Chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác để chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ mô hoặc bộ phận cơ thể của người. Theo Điều 3 của Luật Hiến, Lấy, Ghép Mô, Bộ Phận Cơ Thể Người và Hiến, Lấy Xác (số 76/2006/QH11 ngày 29/11/2006), mô là tập hợp các tế bào cùng một loại hoặc nhiều loại khác nhau để thực hiện các chức năng nhất định của cơ thể người. Bộ phận cơ thể người là một phần của cơ thể được hình thành từ nhiều loại mô khác nhau để thực hiện các chức năng sinh lý nhất định. Nạn nhân của hành vi này phải là người đang sống, và việc lấy mô hoặc bộ phận cơ thể có thể gây chết người hoặc không. Nếu nạn nhân bị chết, đó sẽ là tình tiết tăng nặng hình phạt đối với người phạm tội. Người phạm tội được xem là đã hoàn thành hành vi phạm tội khi thực hiện mua bán hoặc chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể của người khác. Sự xuất hiện của dấu hiệu hậu quả không phải là điều bắt buộc; dù hành vi mua bán hoặc chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể được thực hiện thành công hay chưa, người phạm tội vẫn bị xem là đã hoàn thành tội danh khi hành vi mua bán hoặc chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể xảy ra. Dấu hiệu về mô hoặc bộ phận cơ thể chỉ đóng vai trò xác định hình phạt.
|
Chủ thể | Người phạm tội trong vụ mua bán người, bao gồm cả việc lấy bộ phận cơ thể, có thể là bất kỳ ai từ đủ 14 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Tuổi của người chịu trách nhiệm hình sự đối với tội mua bán người là từ đủ 14 tuổi trở lên theo quy định tại Khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, trong thực tế, các trường hợp xét xử tội phạm mua bán người, đặc biệt là liên quan đến việc lấy bộ phận cơ thể, thường liên quan đến người đã trưởng thành (tức là từ đủ 18 tuổi trở lên). | Theo quy định của Điều 16 Khoản 1 của Bộ luật Hình sự, người từ đủ 16 tuổi trở lên có trách nhiệm pháp luật đối với mọi loại tội phạm. Tuy nhiên, Khoản 2 của Điều này chỉ đề cập đến một số tội phạm mà người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm pháp luật về tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Tuy danh sách các tội phạm này được liệt kê trong Khoản 2 của Điều 16, song tội mua bán và chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người không nằm trong số đó. Do đó, đối với tội phạm mua bán hoặc chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người, độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là từ 16 tuổi trở lên. |
Mặt chủ quan | Tội mua bán người được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội hoàn toàn nhân thức được hậu quả xâm hại đến danh dự nhân phẩm, thậm chí là thân thể, tính mạng của nạn nhân, coi nạn nhân làm công cụ để kiếm lợi ích. Tuy nhận thức rõ hậu quả như vậy nhưng người phạm tội vẫn mong muốn thực hiện tội phạm, mong muốn để cho hậu quả đó xảy ra. Mục đích thực hiện tội phạm mua bán người là lấy bộ phận cơ thể nạn nhân. | Tội phạm thực hiện hành vi vi phạm với ý định cố ý trực tiếp. Họ có hoàn toàn nhận thức về hậu quả gây ra đối với sức khỏe và thân thể của nạn nhân, xem mô và bộ phận cơ thể của nạn nhân như là công cụ để đạt được lợi ích cá nhân hoặc cho mục đích khác, và mong muốn hậu quả xảy ra. Mục đích chủ yếu của việc mua bán hoặc chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể của người là vì mục đích thương mại, cấy ghép, điều trị bệnh cho người khác hoặc vì mục đích nghiên cứu khoa học… |
Hình phạt | -Người phạm tội mua bán người để thu được bộ phận cơ thể của nạn nhân sẽ bị phạt tù từ 12 đến 20 năm. Ngoài ra, họ cũng có thể bị áp phí từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, bị quản chế, cấm cư trú trong thời gian từ 01 đến 05 năm, hoặc có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. | Điều 154 của Bộ luật Hình sự quy định bốn khung hình phạt đối với người phạm tội mua bán hoặc chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người như sau: Người mua bán hoặc chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người khác sẽ bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm. Trong trường hợp người phạm tội thuộc một số điều kiện như tổ chức, mục đích thương mại, lợi dụng chức vụ hoặc gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe với tỷ lệ tổn thương từ 31% đến 60%, khung hình phạt là từ 07 năm đến 15 năm tù. Nếu người phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, hoặc có hành vi gây chết người, tái phạm nguy hiểm, khung hình phạt là từ 12 năm đến 20 năm tù hoặc tù chung thân. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
TUYET NHUNG LAW cung cấp đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp và giàu kinh nghiệm xử lý các vụ án trên thực tế. Liên hệ tư vấn hoặc mời luật sư bào chữa vui lòng liên hệ số điện thoại hotline: 0975.982.169 hoặc gửi yêu cầu qua email: buinhunglw2b@gmail.com để được hỗ trợ.