Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới Điều 165

Bài viết này đề cập đến nội dung pháp lý liên quan đến tội xâm phạm quyền bình đẳng giới được quy định tại Điều 165 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017. Cung cấp cơ sở pháp lý; Giải thích thuật ngữ; Phân tích cấu thành tội phạm và quy định về khung hình phạt sẽ được làm rõ trong bài viết này dùng vào mục đích tham khảo. 

1. Cơ sở pháp lý

Được quy định tại Điều 165 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017 như sau:

“Điều 165. Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới
1. Người nào vì lý do giới mà thực hiện hành vi dưới bất kỳ hình thức nào cản trở người khác tham gia hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Đối với 02 người trở lên.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

2. Xâm phạm quyền bình đẳng giới là gì?

Quyền bình đẳng giới là một trong những quyền cơ bản và quan trọng được cộng đồng quốc tế ghi nhận và được pháp luật của các quốc gia quy định cụ thể, bảo đảm quyền bình đẳng trong việc tham gia tất cả các hoạt động của đời sống xã hội, đặc biệt là đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ so với nam giới.

Xâm phạm quyền bình đẳng giới là hành vi cản trở người khác tham gia các hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục thể thao, y tế dưới bất kỳ hình thức nào vì lý do giới tính.

3. Cấu thành tội phạm

3.1. Mặt khách thể

Khách thể của tội “Xâm phạm quyền bình đẳng giới” là quyền bình đẳng giới của con người, đặc biệt là quyền bình đẳng của phụ nữ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

3.2. Mặt khách quan

Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm là bất kỳ hành vi nào cản trở người khác tham gia các hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế. Các hành vi này có thể dưới dạng hành động hoặc không hành động, nhưng chủ yếu là hành động. Có thể là hành vi dùng vũ lực hoặc các hành vi nghiêm trọng khác gây cản trở người khác tham gia hoạt động trong các lĩnh vực trên.

Dùng vũ lực để cản trở người khác tham gia các hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế là việc sử dụng sức mạnh thể chất tác động vào thân thể của nạn nhân, như: đánh, trói, nhốt trong buồng, trong hầm để nạn nhân không thể tham gia các hoạt động kể trên.

Hành vi nghiêm trọng khác cản trở người khác tham gia các hoạt động trong các lĩnh vực trên là những hành vi không phải vũ lực nhưng vẫn gây cản trở, như: đe dọa dùng vũ lực, đe dọa gây thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần cho nạn nhân, như: dọa sẽ ly hôn nếu tiếp tục tham gia, dọa công bố bí mật đời tư, dọa đuổi việc, cắt tiền thưởng, tiền lương…

Đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm:

Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm là trước đó đã có lần xâm phạm quyền bình đẳng giới, đã bị xử lý bằng một trong những hình thức kỷ luật theo quy định của Nhà nước hoặc theo quy định trong Điều lệ của tổ chức và chưa hết thời hạn được xóa kỷ luật, nay lại có hành vi xâm phạm quyền bình đẳng của con người. Nếu trước đó người phạm tội tuy có bị xử lý kỷ luật, nhưng về hành vi khác không phải là hành vi xâm phạm quyền bình đẳng giới thì cũng không cấu thành tội phạm này.

Đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm là trước đó đã có lần xâm phạm quyền bình đẳng giới của người khác, đã bị xử phạt hành chính bằng một trong những hình thức xử phạt hành chính hoặc bằng một trong những hình thức xử lý hành chính khác theo quy định của Luật Xử phạt vi phạm hành chính và chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính, nay lại có hành vi xâm phạm quyền bình đẳng giới của con người. Nếu trước đó người phạm tội tuy có bị xử lý hành chính, nhưng về hành vi khác không phải là hành vi xâm phạm quyền bình đẳng giới của con người thì cũng không cấu thành tội phạm này.

Hậu quả của tội “Xâm phạm quyền bình đẳng giới” là những thiệt hại do hành vi cản trở người khác tham gia các hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế. Những thiệt hại này có thể là thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần, nhưng chủ yếu là thiệt hại về tinh thần do việc cản trở trực tiếp các quyền của con người. Nếu có thiệt hại về vật chất, thì những thiệt hại đó chỉ là gián tiếp do hành vi xâm phạm quyền bình đẳng giới gây ra.

Ảnh minh hoạ

3.3. Mặt chủ thể

Chủ thể của tội “Xâm phạm quyền bình đẳng giới” có thể là bất kỳ cá nhân phạm tội, hoặc là vụ án đồng phạm. Trường hợp là vụ án đồng phạm, các chủ thể có thể cùng là người thực hiện hành vi phạm tội trực tiếp. Tuy nhiên, có thể có sự phân chia nhiệm vụ giữa từng đồng phạm như người tổ chức, người thực hiện, người xúi giục, người giúp đỡ.

Thông thường, người phạm tội thường là người khác giới đối với nạn nhân, phản ánh sự bất bình đẳng giới do quan niệm trọng nam khinh nữ. Điều 12 của Bộ luật Hình sự quy định rằng người từ đủ 16 tuổi trở lên là chủ thể của tội phạm này. Điều này cũng quy định trách nhiệm hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Tuy nhiên, các khoản quy định tội “Xâm phạm quyền bình đẳng giới” đều thuộc nhóm tội phạm ít nghiêm trọng, do đó người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không chịu trách nhiệm hình sự về tội này.

Chủ thể của tội phạm cũng phải có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bao gồm năng lực nhận thức và năng lực làm chủ hành vi. Trường hợp người phạm tội không có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc bị hạn chế năng lực trách nhiệm hình sự, có thể được loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 21 của Bộ luật Hình sự.

3.4. Mặt chủ quan

Tội “Xâm phạm quyền bình đẳng giới” được thực hiện do lỗi cố ý, có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Điều này có nghĩa là người phạm tội nhận thức rõ ràng rằng hành vi của mình là cản trở người khác tham gia vào các hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế là trái pháp luật. Họ có thể thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra, hoặc họ nhận thức rõ ràng rằng hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả có thể xảy ra mặc dù không mong muốn, nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.

Người phạm tội này có nhiều động cơ khác nhau; động cơ không phải là yếu tố bắt buộc để xác định tội phạm này, do đó việc xác định động cơ phạm tội chỉ có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt.

Mục đích của người phạm tội là mong muốn ngăn cản người khác giới không tham gia vào các hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế.

4. Khung hình phạt đối với tội này

Hình phạt

Áp dung đối với hành vi

Hình phạt chính:
Khung 1:Phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm. Vì lý do giới mà thực hiện hành vi dưới bất kỳ hình thức nào cản trở người khác tham gia hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

Khung 2: Phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 100 triệu đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

+ Phạm tội 02 lần trở lên;

+ Đối với 02 người trở lên.

Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

TUYET NHUNG LAW cung cấp đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp và giàu kinh nghiệm xử lý các vụ án hình sự trên thực tế. Liên hệ tư vấn các vấn đề liên quan đến hình sự hoặc mời luật sư bào chữa cho bị cáo; mời luật sư bảo vệ cho bị hại hoặc người có quyền lợi liên quan trong vụ án hình sự, vui lòng liên hệ số điện thoại/ zalo: 0975.982.169 hoặc gửi yêu cầu qua email: lienhe@tuyetnhunglaw.vn để được hỗ trợ và đưa ra những tư vấn kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng.

Luật sư Bùi Thị Nhung: