Bài viết này đề cập đến các nội dung pháp lý liên quan đến Tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo Điêu 166 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Giải thích một số thuật ngữ; phân tích cấu thành của tội này và hình phạt áp dụng đối với tội này dùng vào mục đích tham khảo.
1. Cơ sở pháp lý
Được quy định tại Điều 166 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 như sau:
“Điều 166. Tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc hành vi khác cản trở việc khiếu nại, tố cáo, việc xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc việc xử lý người bị khiếu nại, tố cáo;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở việc thi hành quyết định của cơ quan có thẩm quyền xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo gây thiệt hại cho người khiếu nại, tố cáo.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Trả thù người khiếu nại, tố cáo;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi quy định tại điểm a khoản 1 Điều này;
d) Dẫn đến biểu tình;
đ) Làm người khiếu nại, tố cáo tự sát.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo là gì?
Việc sử dụng bạo lực, đe dọa sử dụng bạo lực hoặc các hành vi khác nhằm ngăn cản việc khiếu nại, tố cáo, việc xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc việc xử lý người bị khiếu nại, tố cáo. Hoặc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để ngăn cản việc thi hành quyết định của cơ quan có thẩm quyền xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo gây thiệt hại cho người khiếu nại, tố cáo.
3. Cấu thành tội phạm?
3.1. Mặt khách quan của tội này
Người phạm tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo có thể thực hiện một hoặc một số hành vi sau đây:
Sử dụng bạo lực, đe dọa sử dụng bạo lực hoặc các hành vi khác nhằm ngăn cản việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo theo quy định pháp luật đối với các cá nhân, tổ chức. Điều này ám chỉ việc người phạm tội sử dụng bạo lực, đe dọa sử dụng bạo lực hoặc các hành vi khác nhằm đe dọa, ảnh hưởng đến người khiếu nại, khiến họ sợ hãi và không dám tiếp tục hoặc bắt đầu thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của mình.
Sử dụng bạo lực, đe dọa sử dụng bạo lực hoặc các hành vi khác nhằm cản trở việc xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo của cá nhân, tổ chức có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đây là hành vi của người phạm tội sử dụng bạo lực, đe dọa sử dụng bạo lực hoặc các hành vi khác để đe dọa, ảnh hưởng đến cá nhân, tổ chức có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhằm cản trở hoạt động xét xử và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Sử dụng bạo lực, đe dọa sử dụng bạo lực hoặc các hành vi khác để cản trở việc xử lý người bị khiếu nại, tố cáo.
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để cản trở việc thi hành quyết định của cơ quan có thẩm quyền xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo, gây thiệt hại cho người khiếu nại, tố cáo.
Trả thù người khiếu nại, tố cáo. Đây là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn hoặc của người liên quan đến việc khiếu nại, tố cáo, mặc dù không bị khiếu nại, tố cáo nhưng có liên quan đến việc này hoặc liên quan đến người bị khiếu nại, tố cáo đã gây thiệt hại (làm hại) cho người khiếu nại, tố cáo hoặc người mà họ quan tâm. Các hành vi trả thù có thể thực hiện ngay lập tức hoặc chờ cơ hội để thực hiện, thậm chí có thể kéo dài nhiều năm sau. Do đó, khi xác định hành vi trả thù, cần dựa trên thời điểm người phạm tội thực hiện hành vi này để xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, chứ không dựa vào thời điểm xảy ra hành vi khiếu nại, tố cáo. Nếu hành vi trả thù cấu thành một tội phạm độc lập, người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tương ứng với động cơ trả thù.
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi sử dụng bạo lực, đe dọa sử dụng bạo lực hoặc các hành vi khác để cản trở việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của cá nhân, tổ chức.
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi sử dụng bạo lực, đe dọa sử dụng bạo lực hoặc các hành vi khác để cản trở việc xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc việc xử lý người bị khiếu nại, tố cáo. Đây là việc sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình để gây khó khăn cho việc xử lý người bị khiếu nại, tố cáo, bao gồm việc bao che cho người này, không xử lý hoặc xử lý chấp nhận qua loa không đúng với mức độ và tính chất vi phạm của người bị khiếu nại, tố cáo.
Các khái niệm liên quan theo Luật Khiếu nại năm 2011 và Luật Tố cáo năm 2018 được định nghĩa như sau:
Khiếu nại: là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục quy định bởi Luật này đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Ảnh minh hoạ
Người khiếu nại: là công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức thực hiện quyền khiếu nại.
Người bị khiếu nại: là cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại; cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có quyết định kỷ luật cán bộ, công chức bị khiếu nại.
Người giải quyết khiếu nại: là cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.
Giải quyết khiếu nại: là việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết khiếu nại.
Tố cáo: là việc cá nhân theo thủ tục quy định của Luật này báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm: tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ; tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực.
Người bị tố cáo: là cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi bị tố cáo.
Người giải quyết tố cáo: là cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tố cáo.
Giải quyết tố cáo: là việc thụ lý, xác minh, kết luận nội dung tố cáo và xử lý kết luận nội dung tố cáo của người giải quyết tố cáo.
Hậu quả của tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo là những thiệt hại về vật chất, tinh thần, tính mạng, và bất ổn xã hội mà hành vi xâm phạm này gây ra cho người khiếu nại hoặc xã hội. Những thiệt hại này có thể được tính toán bằng tiền, nhưng cũng có thể không thể tính toán bằng tiền. Do đó, để đánh giá một cách toàn diện những thiệt hại không thể tính được bằng tiền, cần xác định rõ hành vi xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo đã gây ra hậu quả như thế nào cho xã hội.
Hậu quả là yếu tố bắt buộc đối với các trường hợp phạm tội được quy định tại điểm b khoản 1 của điều luật. Người phạm tội thực hiện hành vi vi phạm theoNgười phạm tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo thực hiện hành vi của mình với cố ý, có nhiều động cơ và mục đích khác nhau như: vì lợi ích vật chất, vì danh vọng, địa vị xã hội… Nếu do thiếu trách nhiệm hoặc không hiểu biết mà xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo. quy định tại điểm này nếu chưa gây thiệt hại cho người khiếu nại, tố cáo thì chưa cấu thành tội phạm. Đối với những trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 và khoản 2 của điều luật, hậu quả không phải là yếu tố bắt buộc, tuy nhiên cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng vẫn phải xác định thiệt hại để đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
3.2. Mặt khách thể của tội này
Khách thể của tội xâm phạm này là quyền khiếu nại, tố cáo của công dân được pháp luật bảo vệ.
3.3. Mặt chủ quan của tội này
Người phạm tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo thực hiện hành vi của mình với cố ý, có nhiều động cơ và mục đích khác nhau như: vì lợi ích vật chất, vì danh vọng, địa vị xã hội… Nếu do thiếu trách nhiệm hoặc không hiểu biết mà xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo.
3.4. Mặt chủ thể của tội này
Chủ thể của tội phạm xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo cũng phải tuân thủ các điều kiện về độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 và Điều 21 của Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.
Chủ thể của tội phạm này nếu thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 của điều luật, tức là bất kỳ cá nhân nào từ đủ 16 tuổi trở lên đều có thể trở thành chủ thể của tội phạm. (Điều luật này áp dụng cho các tội phạm ít nghiêm trọng, với mức hình phạt cao nhất là 3 năm tù).
Chủ thể của tội phạm thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 của điều luật là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có chức vụ, quyền hạn cụ thể mới có thể lợi dụng chức vụ, quyền hạn để cản trở việc thi hành quyết định của cơ quan có thẩm quyền xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo và gây thiệt hại cho người khiếu nại, tố cáo.
4. Hình phạt của tội này?
Hình phạt | Áp dung đối với hành vi |
Hình phạt chính: | |
Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. | Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc hành vi khác cản trở việc khiếu nại, tố cáo, việc xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc việc xử lý người bị khiếu nại, tố cáo; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở việc thi hành quyết định của cơ quan có thẩm quyền xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo gây thiệt hại cho người khiếu nại, tố cáo. |
Khung 2:Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. | + Có tổ chức; + Trả thù người khiếu nại, tố cáo; + Lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi quy định tại điểm a khoản 1 Điều này; + Dẫn đến biểu tình; + Làm người khiếu nại, tố cáo tự sát. |
Hình phạt bổ sung:Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
TUYET NHUNG LAW cung cấp đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp và giàu kinh nghiệm xử lý các vụ án hình sự trên thực tế. Liên hệ tư vấn các vấn đề liên quan đến hình sự hoặc mời luật sư bào chữa cho bị cáo; mời luật sư bảo vệ cho bị hại hoặc người có quyền lợi liên quan trong vụ án hình sự, vui lòng liên hệ số điện thoại/ zalo: 0975.982.169 hoặc gửi yêu cầu qua email: lienhe@tuyetnhunglaw.vn để được hỗ trợ và đưa ra những tư vấn kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng.