Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát Điều 131
1. Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát Điều 131?
“Điều 131. Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác tự tước đoạt tính mạng của họ;
b) Tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho người khác tự tước đoạt tính mạng của họ.
2. Phạm tội làm 02 người trở lên tự sát, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.”
(Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi 2017)
2. Xúi giục hoặc giúp người khác tự sát là gì?
Xúi giục người khác tự tử là hành vi sử dụng lời nói hoặc hành động để kích động, dụ dỗ, hoặc lừa dối người khác, dẫn đến họ tự tước quyền sống của mình. Trong khi đó, việc giúp đỡ người khác tự tử là hành động tạo ra điều kiện về cả mặt vật chất và tinh thần, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho họ trong quá trình tự tử.
3. Cấu thành tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát?
3.1. Về mặt khách quan của tội phạm
Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát thể hiện qua việc người phạm tội thực hiện hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác tự tước đoạt tính mạng của người bị hại hoặc tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho người khác tự tước đoạt tính mạng của họ.
Kích động, dụ dỗ người khác tự sát là việc người phạm tội sử dụng lời nói để tác động tâm lý, khiến nạn nhân tự ái hoặc suy nghĩ tiêu cực, thúc đẩy họ tự tước đoạt tính mạng. Hành động thúc đẩy này có thể bao gồm lời khuyên tiêu cực hoặc tạo ra tình cảnh tương lai đen tối, đầy áp lực, đặt nạn nhân vào tình trạng khó khăn, khiến họ quyết định tự sát.
Giúp người khác tự sát là hành vi tạo điều kiện vật chất và tinh thần để họ có thể tự tước đoạt tính mạng, ví dụ như cung cấp thuốc độc, dây treo cổ, cho mượn vật dụng tự tử. Hành vi này cũng có thể bao gồm việc hướng dẫn cách thức tự sát.
Hành vi xúi giục phải dẫn đến việc nạn nhân tự nguyện tự sát. Trong trường hợp xúi giục kèm theo áp đặt hoặc buộc bắt người khác không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tự sát, thì hành động đó không chỉ là xúi giục mà còn là hành vi bức tử (theo Điều 130).
Nếu hành động giúp người khác tự sát có tính chất quyết định đến cái chết của nạn nhân, người đó không phạm tội giúp người khác tự sát mà thay vào đó phạm tội giết người. Ví dụ, việc bê cốc nước có chất độc đưa vào miệng nạn nhân để họ uống sẽ không được xem xét theo tội giúp người khác tự sát mà thay vào đó là tội giết người (theo Điều 123).
3.2. Về mặt khách thể của tội phạm
Hành vi phạm tội này tác động tiêu cực đến trật tự an toàn xã hội và một cách gián tiếp vi phạm quyền sống của con người (người bị hại), quyền này được hệ thống pháp luật bảo vệ.
3.3. Về mặt chủ quan của tội phạm
Lỗi: Hành vi phạm tội này xuất phát từ ý định cố ý. Người thực hiện hành vi phạm tội có ý thức rõ ràng về việc hành động của mình có thể gây ra hậu quả là người khác tự sát. Mặc dù nhận thức được tiên đoán về hậu quả của hành vi đó, nhưng vẫn tiếp tục thực hiện với mong muốn hậu quả đó xảy ra.
Mục đích phạm tội: Nhằm mục đích xúi giục hoặc tạo điều kiện thuận lợi để người bị hại tự sát.
3.4. Về mặt chủ thể của tội phạm
Theo quy định tại Điều 12 của Bộ luật Hình sự, người phạm tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát có thể là bất kỳ ai, bao gồm cả công dân Việt Nam, người nước ngoài hoặc người không quốc tịch, miễn là họ đủ 16 tuổi và có năng lực trách nhiệm hình sự (bao gồm năng lực nhận thức và năng lực làm chủ hành vi).
4. Hình phạt đối vớitội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát?
Khung hình phạt | Hành vi phạm tội |
Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. | Thực hiện một trong các hành vi sau đây: Kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác tự tước đoạt tính mạng của họ; Tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho người khác tự tước đoạt tính mạng của họ. |
Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. | Thực hiện một trong các hành vi trên và khiến cho 02 người trở lên tự sát. |
5. Điều kiện để hưởng án treo?
Theo quy định tại Khoản 1 của Điều 65 trong Bộ luật Hình sự về án treo, nếu trong trường hợp xử phạt tù không vượt quá 03 năm và dựa trên các yếu tố nhân thân của người phạm tội cùng với các tình tiết giảm nhẹ, nếu Tòa án nhận thấy không cần thiết phải thực hiện hình phạt tù, thì có thể quyết định án treo và ấn định khoảng thời gian thử thách từ 01 đến 05 năm, cùng với việc thực hiện các nghĩa vụ quy định trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.
Trong trường hợp người phạm tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát, nếu bị xử phạt tù không vượt quá 03 năm, người đó có thể được xem xét cho án treo, miễn là Tòa án đánh giá và quyết định rằng không cần bắt buộc chấp hành hình phạt tù.
Người bị xử phạt tù có thể được xem xét để hưởng án treo nếu đáp ứng đủ các điều kiện quy định sau đây:
Đầu tiên, người bị xử phạt tù không được phạt tù quá 03 năm.
Thứ hai, bị cáo phải có nhân thân tốt, chấp hành chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ công dân tại nơi cư trú và nơi làm việc tính đến trước thời điểm toà tuyên án .
Đối với những người có án tích, nhưng được xem xét là không có án tích, hoặc đã xóa án tích, hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc kỷ luật mà tính đến ngày phạm tội lần này đã quá thời hạn, họ cũng có thể được xem xét cho hưởng án treo. Điều này áp dụng cho các trường hợp ít nghiêm trọng hoặc khi người phạm tội đóng vai trò không đáng kể trong vụ án.
Ngoài ra, những người bị kết án mà vụ án của họ được tách ra để giải quyết trong các giai đoạn khác nhau cũng có thể được xem xét cho hưởng án treo, miễn là đáp ứng các điều kiện khác được quy định.
Thứ ba, để được xem xét án treo, người phạm tội cần có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong đó ít nhất 01 tình tiết phải được quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017). Quan trọng là không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Trong trường hợp có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, số tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng, trong đó ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ phải được quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Thứ tư, người bị xử phạt tù cần có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát và giáo dục. Nơi cư trú rõ ràng được định nghĩa là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ cụ thể theo quy định của Luật Cư trú 2020 mà người được hưởng án treo thường xuyên sinh sống sau khi được hưởng án treo. Nơi làm việc ổn định là nơi người phạm tội làm việc có thời hạn từ 01 năm trở lên theo hợp đồng lao động hoặc theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Cuối cùng, Tòa án cần xác định rằng không cần thiết phải bắt chấp hành hình phạt tù nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, và an toàn xã hội. Trong quá trình xem xét, quyết định cho bị cáo hưởng án treo phải được thực hiện cẩn thận và chặt chẽ, đặc biệt là đối với các trường hợp được hướng dẫn tại khoản 2, khoản 4 và khoản 5 của Điều 3 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP.
Nếu quý khách hàng đang gặp phải bất kỳ vấn đề pháp lý nào hoặc cần tìm kiếm luật sư tham gia bào chữa vụ án. Xin vui lòng liên hệ với luật sư thông qua số điện thoại: 0975.982.169 hoặc qua email:buinhunglw2b@gmail.com. Chúng tôi sẵn sàng lắng nghe và cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp để giúp quý khách giải quyết mọi vấn đề một cách hiệu quả.